Thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam cho biết theo thống kê của Viện Nghiên cứu nông nghiệp hữu cơ – FiB năm 2017 cho thấy, diện tích nuôi trồng hữu cơ của nước ta năm 2015 đạt hơn 76.000 ha, tăng trên 3,6 lần so với năm 2010 và tập trung tại một số tỉnh, thành phố như: Hà Nội, Hòa Bình, Lào Cai, Hà Giang, Hà Nam, Lâm Đồng, Cà Mau, Bến Tre, Bà Rịa – Vũng Tàu... Sản phẩm hữu cơ được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu đến các thị trường như Nhật Bản, Đức, Anh, Mỹ, Hàn Quốc, Nga, Singapore…
Hiện nay, cả nước mới chỉ có hai mô hình sản xuất hữu cơ là mô hình doanh nghiệp tư nhân và nhóm hộ nông dân. Doanh nghiệp tư nhân là đơn vị chủ yếu áp dụng các tiêu chuẩn hữu cơ quốc tế để sản xuất và một phần tiêu thụ tại các thành phố lớn trong nước.
Các nhóm hộ nông dân sản xuất chủ yếu sản xuất hữu cơ theo tiêu chuẩn của hệ thống đảm bảo sự tham gia (PGS) và tiêu thụ tại thị trường nội địa. Các nhóm hộ này sản xuất dựa trên cơ sở tự nguyện, không có đơn đặt hàng tiêu thụ trước, chưa đăng ký để được chứng nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế, do đó thị trường tiêu thụ sản phẩm còn nhiều bấp bênh, giá thấp do chưa nhận được tin cậy của người tiêu dùng trong nước.
Cụ thể, đối với lĩnh vực trồng trọt, Việt Nam có khoảng 30/63 tỉnh thành phố triển khai nông nghiệp hữu cơ và theo hướng hữu cơ với 59 cơ sở sản xuất. Trong đó, Bến Tre là tỉnh có diện tích trồng trọt hữu cơ lớn nhất với 3.053,04 ha chủ yếu là dừa và Ninh Thuận là tỉnh có diện tích trồng nho theo hướng hữu cơ với 284,66 ha.
Một số doanh nghiệp sản xuất hữu cơ đã được các tổ chức quốc tế chứng nhận và xuất khẩu thành công sang EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc như: Công ty Viễn Phú sản xuất lúa lai với 200ha; Organik Đà Lạt sản xuất rau hữu cơ; Ecolink sản xuất chè...
Đối với lĩnh vực chăn nuôi thủy sản có hai trang trại chăn nuôi bò sữa hữu cơ với quy mô lớn là Trang trại bò sữa hữu cơ của Công ty Vinamilk với trang trại ban đầu tại tỉnh Lâm Đồng (khoảng 500 con) và trang trại bò sữa của Công ty TH TrueMilk với tổng đàn bò sữa khoảng 1.000 con.
Đối với vật tư đầu vào, cả nước có khoảng 250 đơn vị sản xuất phân bón hữu cơ với công suất đăng ký khoảng 4 triệu tấn/năm; đã cấp phép 115 đơn vị với tổng công suất khoảng 2 triệu tấn/năm. Nhưng lượng phân bón hữu cơ thực tế chỉ đạt khoảng 1 triệu tấn/năm, chiếm 10% tổng phân bón sử dụng.
Toàn cảnh Hội nghị |
Mặc dù nông nghiệp hữu cơ đã đạt được một số kết quả, nhưng theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, phát triển nông nghiệp hữu cơ vẫn còn gặp nhiều khó khăn do đa số nông dân chưa muốn chuyển đổi sang sản xuất nông nghiệp hữu cơ bởi quy trình sản xuất khắt khe, phải có thời gian khá dài cải tạo đất.
Bên cạnh đó, chi phí sản xuất cao, thị trường cho sản xuất của nông nghiệp hữu cơ không ổn định. Ngoài ra, Việt Nam vẫn chưa có hệ thống tiêu chuẩn quốc gia, các tổ chức chứng nhận và khung pháp lý đồng bộ cho sản xuất, chưa có chứng nhận và giám sát chất lượng cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, lòng tin của người tiêu dùng chưa đảm bảo.
Sản xuất nông nghiệp hữu cơ còn nhỏ lẻ, tự phát, chưa có quy hoạch hay định hướng về đất cũng như đối tượng. Thị trường nội địa cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ hiện chưa phát triển.
Đưa ra những giải pháp để thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng – Bộ Khoa học và Công nghệ, Nguyễn Nam Hải, cho biết, trong năm 2017, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng sẽ tổ chức soát xét sửa đổi tiêu chuẩn quốc gia TCVN 11041:2015 cho phù hợp với các bên tham gia sử dụng tiêu chuẩn trong thực tiễn. Đồng thời tổ chức xây dựng, công bố tiêu chuẩn quốc gia TCVN hướng dẫn về chương trình chứng nhận sản phẩm nông nghiệp hữu cơ trên cơ sở của nguyên tắc chứng nhận được quy định tại ISO/IEC 17065 và các yêu cầu đặc thù của lĩnh vực.
Theo Phó Tổng cục trưởng Nguyễn Nam Hải, việc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc gia TCVN về nông nghiệp hữu phải hài hoà với tiêu chuẩn quốc tế và phù hợp với tiêu chuẩn đã thống nhất trong ASEAN để đảm bảo yêu cầu hội nhập, đồng thời phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, Tổng cục tiếp tục xem xét, tổ chức xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia TCVN nhằm hướng dẫn chi tiết quá trình sản xuất hữu cơ trong một số lĩnh vực cụ thể, như: sản xuất hữu cơ trong trồng trọt hay chăn nuôi.
“Đồng thời gắn việc xây dựng tiêu chuẩn quốc gia TCVN về sản phẩm hữu cơ đối với một số sản phẩm cụ thể có tiềm năm xuất khẩu lớn, như: gạo, cà phê, tôm... với mục tiêu phát triển sản phẩm nông nghiệp mang thương hiệu quốc gia” ông Hải nhấn mạnh thêm.
Thứ trưởng Trần Thanh Nam cho rằng, thời gian tới cần phải quy hoạch và bảo vệ đất đai, nguồn nước chưa bị ô nhiễm thích hợp cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Đồng thời, thường xuyên thanh tra, giám sát việc sản xuất nông nghiệp hữu cơ, giúp người tiêu dùng an tâm khi sử dụng các sản phẩm hữu cơ đã được chứng nhận và đạt tiêu chuẩn.
Bên cạnh đó, tăng cường công tác đào tạo, hợp tác quốc tế về nông nghiệp hữu cơ, nâng cao năng lực và thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa, phát triển sản phẩm theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ./.
Bình luận