Thúc đẩy tài chính số ở Việt Nam: Cơ hội và đề xuất
ThS. Trịnh Thị Thu Nguyệt
Trường Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp Hà Nội
Email: nguyet5971@gmail.com
Tóm tắt
Tài chính số đang trở thành xu hướng nổi bật trong nền kinh tế hiện đại, mang lại sự thay đổi mạnh mẽ trong cách thức giao dịch và quản lý tài chính. Theo đó, tài chính số giúp gia tăng sự ổn định tài chính thông qua thúc đẩy tài chính toàn diện và góp phần giảm chi phí hoạt động của ngân hàng, đồng thời mang lại nhiều lợi ích vượt trội như tiết kiệm thời gian, giảm chi phí giao dịch và nâng cao tính minh bạch trong các hoạt động tài chính. Bài viết đánh giá tổng quan về tài chính số, cơ hội thúc đẩy tài chính số ở Việt Nam, từ đó đưa ra một số khuyến nghị.
Từ khóa: Tài chính số, ngân hàng, tài chính toàn diện
Summary
Digital finance is emerging as a prominent trend in the modern economy, driving significant changes in financial transactions and management. It enhances financial stability by promoting financial inclusion and reducing banks’ operating costs, while offering superior benefits such as saving time, lowering transaction costs, and improving transparency in financial activities. This article provides an overview of digital finance, explores opportunities to promote digital finance in Viet Nam, and offers several recommendations.
Keywords: Digital finance, banking, financial inclusion
ĐẶT VẤN DỀ
Tài chính số đang đơn giản hóa các quy trình tài chính, mở rộng khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính trên toàn thế giới và cách mạng hóa cách mọi người quản lý tiền bạc, thanh toán và tiếp cận các khoản vay. Do đó, tài chính số đóng vai trò thiết yếu đối với hiệu quả tài chính, tính toàn diện và đổi mới sáng tạo.
Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia xác định tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50% GDP; là một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới; thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Để hiện thực hóa mục tiêu này, việc đẩy mạnh phát triển kinh tế số nói chung và tài chính số nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng.
TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH SỐ
Khái niệm
Theo Tổ chức Hợp tac và Phát triển (OECD), tài chính số là các hoạt động tài chính sử dụng công nghệ kỹ thuật số, bao gồm tiền điện tử, dịch vụ tài chính di động, dịch vụ tài chính trực tuyến, i-teller và ngân hàng số, cho dù thông qua các tổ chức ngân hàng hay phi ngân hàng. Theo Ủy ban châu Âu (2022), tài chính số là thuật ngữ dùng để mô tả tác động của công nghệ mới lên ngành dịch vụ tài chính. Nó bao gồm nhiều sản phẩm, ứng dụng, quy trình và mô hình kinh doanh đa dạng đã thay đổi cách thức cung cấp dịch vụ ngân hàng và tài chính truyền thống. Theo KISVN (2025), tài chính số là sự chuyển đổi của các hoạt động tài chính truyền thống sang nền tảng số nhờ vào công nghệ tiên tiến. Với sự phát triển mạnh mẽ của internet, trí tuệ nhân tạo (AI), Công nghệ chuỗi khối (Blockchain) và Dữ liệu lớn (Big Data), tài chính số đã thay đổi cách cá nhân và doanh nghiệp quản lý tài sản, thực hiện giao dịch và tiếp cận các dịch vụ tài chính.
Ozili (2018) đưa ra một định nghĩa rộng hơn, theo đó, tài chính số bao gồm tất cả các sản phẩm, dịch vụ, công nghệ hoặc nền tảng công nghệ cho phép cá nhân và doanh nghiệp thực hiện việc thanh toán, tiết kiệm hoặc cấp tín dụng qua Internet (trực tuyến) mà không cần đến chi nhánh ngân hàng hoặc trực tiếp làm việc với các nhà cung cấp dịch vụ. Trên góc độ kỹ thuật, theo Lâm Hải (2024), tài chính số (Digital Finance) là thuật ngữ mô tả quá trình số hóa trong khu vực tài chính nói chung, qua đó tạo nền tảng cho sự ra đời của các sản phẩm tài chính điện tử như thẻ tín dụng (credit), thẻ chip, trao đổi dữ liệu điện tử (electronic trading system), dịch vụ ngân hàng tại nhà (home banking), các dịch vụ giao dịch tại nhà khác (home trading services), máy rút tiền tự động (automated teller machines)…
Các thành phần chính của tài chính số
Bảng: Các thành phần chính của tài chính số
|
STT |
Thành phần |
Ý nghĩa |
|
1 |
Ngân hàng số |
Ngân hàng số cho phép khách hàng thực hiện các giao dịch tài chính trực tuyến mà không cần đến chi nhánh ngân hàng. Các ứng dụng ngân hàng di động, internet banking giúp người dùng gửi tiền, vay vốn, đầu tư chỉ với vài thao tác trên điện thoại. |
|
2 |
Thanh toán điện tử và ví điện tử
|
Các phương thức thanh toán điện tử như thẻ tín dụng, chuyển khoản online và ví điện tử đã trở nên phổ biến, giúp giao dịch diễn ra nhanh chóng, an toàn và giảm thiểu sự phụ thuộc vào tiền mặt. |
|
3 |
Tiền điện tử và blockchain
|
Tiền điện tử như Bitcoin, Ethereum đã tạo ra một mô hình tài chính phi tập trung. Công nghệ blockchain, với tính bảo mật và minh bạch cao, đang dần được áp dụng trong nhiều lĩnh vực tài chính khác nhau như hợp đồng thông minh (smart contracts) và thanh toán xuyên biên giới. |
|
4 |
Đầu tư và giao dịch trực tuyến
|
Các nền tảng đầu tư số giúp nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận thị trường tài chính toàn cầu. Việc giao dịch cổ phiếu, ngoại hối, tiền điện tử trở nên thuận tiện hơn nhờ vào công nghệ phân tích dữ liệu và giao diện thân thiện. |
Nguồn: KISVN (2025)
Lợi ích của tài chính số
Các nghiên cứu và kiểm nghiệm thực tế cho thấy, phát triển tài chính số cải thiện sự ổn định của hệ thống tài chính thông qua việc tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng và hạn chế tỉ lệ lạm phát. Nghiên cứu của Banna và Alam (2021) trên 253 ngân hàng tại khu vực Đông Nam Á trong giai đoạn 2011-2019 cung cấp chứng cứ định lượng cho thấy, sự tác động tích cực của tài chính số lên sự ổn định của hệ thống ngân hàng tại khu vực này. Theo đó, tài chính số không chỉ làm giảm khả năng vỡ nợ của ngân hàng mà còn tăng khả năng dịch chuyển tài chính (khả năng cải thiện tình hình tài chính) của khu vực. Trong khi đó, nghiên cứu của Kammoun và cộng sự (2020) lại cung cấp minh chứng cho việc tài chính công nghệ thúc đẩy ổn định tài chính và hiệu quả kinh tế ở khu vực Trung Đông - Bắc Phi ngay cả trong thời kì xã hội có sự bất ổn về chính trị.
Tài chính số mang lại nhiều lợi ích vượt trội như tiết kiệm thời gian, giảm chi phí giao dịch và nâng cao tính minh bạch trong các hoạt động tài chính. Ahamed và Mallick (2019) cho rằng, tài chính số, đặc biệt là tài chính toàn diện giúp cho nhiều cá nhân có thể tiếp cận với các dịch vụ tài chính chính thống hơn, điều này sẽ thúc đẩy sự tuần hoàn vốn trong nền kinh tế, tăng tốc độ phát triển kinh tế và giảm nghèo đói. Trên góc độ nhà đầu tư, nhờ vào sự ứng dụng của công nghệ AI và Big Data, người dùng không chỉ có thể quản lý tài chính cá nhân một cách dễ dàng mà còn tối ưu hóa các quyết định đầu tư, phân tích xu hướng thị trường và giảm thiểu rủi ro (KISVN, 2025).
CƠ HỘI PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH SỐ Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
Cơ hội
Tại Việt Nam, tài chính số có nhiều cơ hội, tiềm năng để phát triển nhanh, mạnh mẽ. Cụ thể là:
Về tiềm năng phát triển kinh tế số
Việt Nam là một trong những quốc gia có nền kinh tế số tăng trưởng nhanh nhất khu vực Đông Nam Á với tốc độ 38% một năm. Năm 2024, tỷ trọng kinh tế số ước đạt 18,3% GDP, tốc độ tăng trưởng vượt 20%/năm, cao gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP, nhanh nhất Đông Nam Á. Năm 2025, kinh tế số của Việt Nam đang tiếp tục thể hiện sự tăng trưởng mạnh mẽ, với dự báo sẽ đạt khoảng 45 tỷ USD vào. Sự mở rộng này được thúc đẩy bởi kỳ vọng tăng trưởng kinh tế ổn định và sự gia tăng sử dụng các dịch vụ số trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Một số ngành công nghiệp tại Việt Nam đang được số hóa nhanh chóng, bao gồm thương mại điện tử, du lịch, nội dung số và công nghệ tài chính. Trong khi đó, thương mại điện tử bán lẻ đạt doanh thu 25 tỷ USD, tăng khoảng 20%. Việt Nam thuộc top 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử hàng đầu thế giới. Tốc độ tăng trưởng thanh toán không dùng tiền mặt hàng năm tăng hơn 50%, dẫn đầu Đông Nam Á (Hà Văn, 2025).
Về chủ trương của Đảng và Nhà nước
Nhận thức được sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế số, tài chính số, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 52/NQ-TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xác định rõ mục tiêu phát triển mạnh mẽ kinh tế số. Tiếp đó, ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, phấn đấu đến năm 2025, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, góp phần đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của cơ quan quản lý nhà nước, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân. Ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia xác định tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới. Thông qua các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, có thể thấy, Đảng, Nhà nước thể hiện rất quyết tâm thúc đẩy chuyển đổi số trên mọi lĩnh vực, đặc biệt ưu tiên phát triển trên 3 phương diện lớn của đất nước gồm: Chính phủ số, Kinh tế số, Xã hội số. Đây là điều kiện tiên quyết cho việc phát triển tài chính số ở Việt Nam (Lâm Hải, 2024).
Về hành lang pháp lý, chính sách cho phát triển tài chính số
Thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực hoàn thiện chính sách thúc đẩy quá trình chuyển đổi số nói chung, phát triển tài chính số nói riêng. Điển hình như Quốc hội đã ban hành, sửa đổi, bổ sung Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Sở hữu trí tuệ… Bên cạnh đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành các quyết định nhằm thúc đẩy phát triển tài chính số như: Nghị quyết số 100/NQ-CP ngày 6/9/2021 về việc thông qua đề nghị xây dựng Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (fintech), Quyết định số 316/2021/QĐ-TTg ngày 9/3/2021 về việc phê duyệt triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ (Mobile-Money); Quyết định số 1813/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021-2025… (Lâm Hải, 2024). Điều đó cho thấy, khuôn khổ pháp lý cho hoạt động tài chính số đã không ngừng được hoàn thiện, tạo cơ sở cho việc triển khai các giải pháp đột phá nhằm thúc đẩy khả năng tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính cho các đối tượng mục tiêu của tài chính toàn diện.
Về hạ tầng phát triển kinh tế số, tài chính số
Hệ thống kết cấu hạ tầng cho phát triển kinh tế số nói chung, tài chính số nói riêng ở Việt Nam được tập trung đầu tư xây dựng, ngày càng đồng bộ, hiện đại. Đến năm 2020, hạ tầng viễn thông quốc gia đã phủ rộng khắp toàn quốc, kể cả ở những vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo với hơn 800.000 km cáp quang và các trạm thu phát sóng. Việt Nam đưa vào khai thác 1 tuyến cáp biển mới, tuyến thứ 6 và là tuyến có dung lượng lớn nhất của Việt Nam (20Tbps), giúp cải thiện tốc độ internet và bảo đảm sự bền vững kết nối quốc tế của Việt Nam. Tỷ lệ hộ gia đình có internet cáp quang đạt 82,4%, vượt mục tiêu đến năm 2025 là 80%. Dữ liệu số và nền tảng số tiếp tục được xây dựng, phát triển. Giao dịch dữ liệu qua nền tảng tích hợp chia sẻ dữ liệu quốc gia tăng 57%, từ 647 triệu năm 2023 lên 1.013 triệu giao dịch trong năm 2024 (Hà Văn, 2025). Theo Bộ Khoa học và Công nghệ (2025), Việt Nam hiện đạt 104,7 triệu thuê bao Internet băng rộng di động tính đến tháng 4, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước.
Về nhận thức và sự vào cuộc của các bên liên quan
Các ngân hàng, các doanh nghiệp tài chính công nghệ tại Việt Nam đang ngày càng quan tâm và nỗ lực thúc đẩy sự phát triển của tài chính số. Với Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ ban hành, tính đến tháng 6/2023, có 82 tổ chức tín dụng đã triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet, 52 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động, 50 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; số lượng tài khoản thanh toán mở bằng phương thức điện tử đang hoạt động khoảng 27 triệu, số lượng thẻ mở bằng phương thức điện tử khoảng 10,8 triệu.
Bên cạnh đó, hiện nay, hầu hết ngân hàng đã đẩy mạnh công nghệ số để nâng cao trải nghiệm người dùng. Đặc biệt, các ngân hàng cũng đã hợp tác với công ty công nghệ tài chính để đẩy mạnh các dịch vụ gắn với tài chính số. Xu thế này càng được thúc đẩy nhờ sự chấp nhận văn hóa mới về ngân hàng số và công nghệ tài chính ở Việt Nam ngày càng tăng, đặc biệt là đối với những người trẻ và am hiểu về công nghệ. Tính đến tháng 4/2025, Viettel Money đã phục vụ gần 30 triệu khách hàng, dẫn đầu thị phần thanh toán dịch vụ thiết yếu (điện, nước, Internet…) và học phí trên cả nước.
Bên cạnh những lợi ích đáng kể, tài chính kỹ thuật số cũng đối mặt với không ít thách thức như: thiếu một khung pháp lý rõ ràng và đồng bộ gây ra những rủi ro lớn đối với người sử dụng dịch vụ tài chính số; nhận thức chung của xã hội về tài chính số chưa đầy đủ; thói quen, hành vi dùng tiền mặt của người dân vẫn còn phổ biến; các kỹ năng số của người dân còn hạn chế; thiếu nguồn nhân lực số tạo ra các sản phẩm số cho nền tài chính số…; cơ sở hạ tầng tài chính số dù đã được quan tâm đầu tư nhưng vẫn còn thiếu và chưa được liên thông toàn diện, đặc biệt là cơ sở hạ tầng thông tin (thông tin tín dụng, hệ thống định danh)…; bảo mật thông tin cá nhân còn nhiều đối mặt với nhiều nguy cơ...
Một số đề xuất
Trên cơ sở nhận diện những cơ hội và thách thức trong phát triển tài chính số, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức, kiến thức về tài chính số. Nhà nước, các cơ quan quản lý, các tổ chức tài chính, các cơ sở đào tạo cần có sự phối hợp để xây dựng một chương trình, chiến lược tổng thể, dài hạn về giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về tài chính số. Nghiên cứu tổ chức các chương trình truyền hình, tập huấn, các hội thảo cung cấp kiến thức về tài chính và sử dụng Internet an toàn đến với người dân, đặc biệt đối với người lớn tuổi, người ở vùng sâu, vùng xa với mức thu nhập thấp.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý nhằm phát triển tài chính số. Theo đó, hoàn thiện quy định pháp lý điều chỉnh các sản phẩm, dịch vụ tài chính số và các tổ chức cung cấp sản phẩm, dịch vụ tài chính số. Khẩn trương rà soát, thiết lập các quy tắc và quy định cho hệ sinh thái tài chính số; tập trung xây dựng hành lang pháp lý về hoạt động cung cấp dịch vụ/sản phẩm tài chính số… Nghiên cứu ban hành các chính sách thuế hỗ trợ khuyến khích cả các doanh nghiệp và người tiêu dùng chấp nhận các sản phẩm, dịch vụ tài chính số.
Ba là, xây dựng chiến lược phát triển, chính sách phát triển, tầm nhìn phát triển tài chính số gắn với phát triển hệ thống tài chính - ngân hàng và với định hướng phát triển tài chính toàn diện. Xây dựng các nền tảng quản trị thông minh nhằm cung cấp các dịch vụ tài chính thông minh, tham gia tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế số. Đối với cơ quan quản lý, cần thay đổi quy trình, phương thức làm việc trên môi trường số, bước đầu hình thành một phần hệ sinh thái tài chính số của ngành Tài chính.
Bốn là, tiếp tục đầu tư hiện đại hóa hạ tấng công nghệ phục vụ cho phát triển tài chính số. Xác định và luật hóa những nội dung về phát triển hạ tầng số để mở rộng phạm vi quản lý, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy, tạo điều kiện phát triển hạ tầng viễn thông băng rộng, hạ tầng điện toán đám mây...
Năm là, quan tâm đến công tác bảo vệ, bảo mật thông tin cá nhân. Đặc biệt, sự kiện Thông tin tín dụng Quốc gia (CIC) bị hacker tấn công càng cho thấy tầm quan trọng của công tác dự báo, cảnh báo rủi ro cũng như ứng phó với các sự cố trên nền tảng số trong bối cảnh các thông tin về tài chính hết sức quan trọng và cũng thường bị các đối tượng nhòm ngó.
KẾT LUẬN
Tài chính số không chỉ là một xu hướng mà đã trở thành một phần không thể thiếu của nền kinh tế hiện đại. Việc áp dụng công nghệ vào lĩnh vực tài chính mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đi kèm với không ít thách thức. Việc nhận thức, phát huy được những cơ hội, tiềm năng cũng như hạn chế được những rủi ro, thách thức sẽ góp phần thúc đẩy tài chính số trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ hiện nay.
Tài liệu tham khảo:
1. Ahamed, M.M., Mallick, S.K., 2019. Is financial inclusion good for bank stability? International evidence. Journal of Economic Behavior & Organization 157, 403-427. https://doi.org/10.1016/j.jebo.2017.07.027.
2. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
3. Bộ Khoa học và Công nghệ (2025). Báo cáo kết quả công tác quý II/2025.
4. Banna, H., Alam, M.R., 2021. Impact of digital financial inclusion on ASEAN banking stability: implications for the post-Covid-19 era. SEF 38, 504-523. https://doi.org/10.1108/SEF-09-2020-0388.
5. Hà Văn (2025). Kinh tế số Việt Nam tăng trưởng nhanh nhất khu vực. Báo điện tử Chính phủ. https://baochinhphu.vn/kinh-te-so-viet-nam-tang-truong-nhanh-nhat-khu-vuc-102250206152332651.htm.
6. KISVN (2025). Tài chính số: Xu hướng và tác động đến nền kinh tế hiện đại. https://stockkisvn.vn/tai-chinh-so/.
7. Lâm Hải (2024). Giải pháp phát triển tài chính số ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Công Thương, Số 22 tháng 10/2023.
| Ngày nhận bài: 4/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 18/9/2025; Ngày duyệt đăng: 23/9/2025 |

Bình luận