Thực trạng hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp tỉnh Ninh Bình(*)
PGS.TS Bùi Quang Hùng
PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Nhâm
Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Bài viết đánh giá tình hình hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Kết quả khảo sát 400 doanh nghiệp trên địa bàn cho cho thấy, các doanh nghiệp đều đánh giá vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với sự phát triển bền vững và gia tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Về cơ cấu nguồn vốn cho đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào vốn tự có hoặc nhận hỗ trợ từ công ty mẹ. Bên cạnh đó, tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện các hoạt động đổi mới tổ chức quản lý và marketing còn thấp, cho thấy vẫn còn nhiều doanh nghiệp duy trì phương pháp quản lý và tiếp thị truyền thống. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng và chính sách được xem là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến khả năng đổi mới của các doanh nghiệp.
Từ khóa: khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp, Ninh Bình
Summary
This article assesses the current state of science, technology, and innovation activities among enterprises in Ninh Binh province. A survey of 400 local enterprises reveals that these businesses generally recognize the crucial role of science, technology, and innovation in promoting sustainable development and enhancing their competitive capacity. Regarding the funding structure for technological innovation, most enterprises in Ninh Binh rely on internal capital or financial support from parent companies. Additionally, the proportion of firms engaging in organizational and marketing innovation remains low, indicating that many businesses still adopt traditional management and marketing approaches. Lastly, infrastructure and policies are perceived as key factors significantly influencing the innovation capacity of enterprises.
Keywords: science, technology, innovation, enterprises, Ninh Binh
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khoa học, công nghệ (KHCN) và đổi mới sáng tạo (ĐMST) có vai trò quan trọng không chỉ trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, mà còn là động lực để hiện đại hóa ngành sản xuất và quản trị, cải thiện hiệu quả sử dụng nguồn lực, đồng thời góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc đầu tư vào KHCN và ĐMST cũng đồng nghĩa với việc tạo lập các lợi thế cạnh tranh dài hạn cho địa phương trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Đối với khu vực doanh nghiệp, KHCN và ĐMST còn là nền tảng tạo sự phát triển bền vững và gia tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
DỮ LIỆU KHẢO SÁT
Nhóm tác giả tiến hành khảo sát dữ liệu gồm 400 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Nam (địa danh trong nghiên cứu đã được cập nhật thông tin sau ngày 1/7/2025 là Ninh Bình). Hình 1 cho thấy cơ cấu doanh nghiệp được khảo sát tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo (75,5%). Các ngành khác có tỷ trọng thấp hơn, như KHCN (7,4%), dịch vụ và nông - lâm - thủy sản (4,6%), bán buôn - bán lẻ (4,2%), các ngành còn lại đều dưới 2%.
Hình 1: Tỷ trọng các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp tại tỉnh Ninh Bình
![]() |
Nguồn: Khảo sát của nhóm nghiên cứu
Hình 2 cho biết, thị trường quốc tế là kênh tiêu thụ chính (50,5%) của các doanh nghiệp được khảo sát, tiếp theo là thị trường trong nước (42,1%) và địa phương (4,6%). Nhóm doanh nghiệp phục vụ cả trong và ngoài nước chiếm 2,8%.
Hình 2: Thị trường chính của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
![]() |
Nguồn: Khảo sát của nhóm nghiên cứu
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO CỦA DOANH NGHIỆP TỈNH NINH BÌNH
Đổi mới sản phẩm
Kết quả khảo sát cho thấy chỉ 27,8% doanh nghiệp thực hiện hoạt động đổi mới hoặc cải tiến sản phẩm, trong khi 72,2% chưa triển khai. Như vậy, hoạt động đổi mới sản phẩm hiện vẫn chưa phổ biến trong cộng đồng doanh nghiệp địa phương. Mục tiêu chính của các doanh nghiệp khi thực hiện đổi mới sản phẩm là gia tăng thị phần (35%), mở rộng danh mục sản phẩm (28,3%), nâng cao năng lực cạnh tranh (25%) và thay thế sản phẩm hiện hữu (21,7%). Những mục tiêu này phản ánh xu hướng đổi mới mang tính chủ động, định hướng thị trường của doanh nghiệp trên địa bàn.
Đổi mới quy trình công nghệ
Tỷ lệ doanh nghiệp tham gia khảo sát thực hiện đổi mới hoặc cải tiến quy trình công nghệ còn thấp, chỉ đạt 28,2%, cho thấy phần lớn vẫn duy trì quy trình sản xuất truyền thống hoặc chưa ưu tiên đầu tư cho đổi mới kỹ thuật. Về phương thức triển khai, doanh nghiệp có xu hướng sử dụng gia công, thuê đối tác bên ngoài (42,62%) là chủ yếu, trong khi 37,70% tự thực hiện và 19,67% áp dụng hình thức kết hợp. Các phương pháp đổi mới phổ biến nhất là đầu tư công nghệ mới (54,1%) và nâng cấp, sửa đổi thiết bị hiện có (49,2%), chứng tỏ doanh nghiệp tập trung vào các hình thức cải tiến trực tiếp nhằm nâng cao năng lực sản xuất. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp lựa chọn các phương án khác như thuê nhân lực kỹ năng cao (29,5%), tiếp nhận công nghệ từ công ty trong hệ thống (24,6%) hoặc từ công ty bên ngoài (23%). Tuy nhiên, các kênh chuyển giao công nghệ từ tổ chức KHCN công lập (4,9%), các tổ chức nghiên cứu khác (3,3%) hoặc thông qua mua bán - sáp nhập (8,2%) vẫn chưa được khai thác hiệu quả, cho thấy dư địa lớn trong việc thúc đẩy liên kết với hệ sinh thái KHCN.
Đổi mới hoạt động tổ chức và quản lý
Dữ liệu khảo sát cho biết, chỉ có 20,4% doanh nghiệp thực hiện đổi mới tổ chức và quản lý, trong khi 79,6% chưa triển khai hoạt động này. Thực trạng này cho thấy đổi mới tổ chức vẫn chưa được quan tâm đúng mức trong cộng đồng doanh nghiệp địa phương. Đối với các doanh nghiệp đã triển khai, mục tiêu đổi mới tập trung chủ yếu vào nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ (86,4% đánh giá cao), phát triển sản phẩm hoặc quy trình mới (70,5%) và rút ngắn thời gian đáp ứng nhu cầu khách hàng hoặc nhà cung cấp (68,2%). Các mục tiêu liên quan đến cải thiện chia sẻ thông tin trong và ngoài doanh nghiệp (59,1%) và giảm giá thành sản phẩm (52,3%) được đánh giá thấp hơn (Hình 3). Những kết quả này cho thấy các doanh nghiệp có xu hướng ưu tiên đổi mới tổ chức nhằm nâng cao chất lượng và năng lực sáng tạo hơn là chỉ tập trung vào tiết giảm chi phí.
Hình 3: Mức độ quan trọng của các mục tiêu trong đổi mới tổ chức và quản lý doanh nghiệp
![]() |
Nguồn: Khảo sát của nhóm nghiên cứu
Đổi mới hoạt động marketing
Mức độ đổi mới marketing của doanh nghiệp vẫn còn hạn chế, chỉ 28,2% doanh nghiệp triển khai các hoạt động này, phản ánh sự thiếu quan tâm đúng mức đến marketing - một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao khả năng tiếp cận thị trường và lan tỏa hiệu quả của ĐMST trong tăng trưởng kinh tế địa phương. Trong số các doanh nghiệp đã thực hiện đổi mới marketing, phần lớn đều đánh giá cao vai trò của hoạt động này. Cụ thể, 83,6% doanh nghiệp ưu tiên duy trì hoặc mở rộng thị phần; 82% coi việc tiếp cận khách hàng mới là mục tiêu quan trọng; 70,5% nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mở rộng thị trường theo địa lý và khả năng chia sẻ thông tin nội bộ. Ngược lại, chỉ 59% doanh nghiệp đánh giá cao mục tiêu giảm chi phí sản phẩm - tỷ lệ thấp nhất trong các tiêu chí khảo sát.
Nguồn lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp
Nguồn lực ĐMST của doanh nghiệp bao gồm 2 trụ cột chính: đầu tư trực tiếp cho các hoạt động đổi mới và khả năng tiếp thu, vận dụng tri thức từ bên ngoài. Tuy nhiên, khảo sát cho thấy phần lớn doanh nghiệp tại Ninh Bình chưa thực sự đầu tư mạnh vào các hoạt động cốt lõi (Hình 4). Chỉ 12,5% doanh nghiệp thực hiện nghiên cứu và phát triển (R&D) nội bộ - nền tảng cho phát triển công nghệ tự chủ, trong khi tỷ lệ đầu tư vào máy móc, thiết bị và phần mềm đạt 26,4%, phản ánh tín hiệu tích cực ban đầu nhưng chưa đủ lan tỏa. Các hình thức khác như thuê chuyên gia (15,7%), đổi mới mô hình kinh doanh (8,3%) hay mua tài liệu/chuyên môn từ bên ngoài (dưới 7%) vẫn còn khá hạn chế. Tỷ lệ doanh nghiệp đặt hàng từ tổ chức R&D (14,4%) hay tham gia hoạt động đổi mới khác (6,5%) cũng cho thấy khả năng kết nối với hệ sinh thái tri thức còn yếu.
Hình 4: Các hoạt động triển khai đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp
![]() |
Nguồn: Khảo sát của nhóm nghiên cứu
Về cơ cấu nguồn vốn cho đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào nội lực tài chính. Có tới 80,7% sử dụng vốn tự có và 50,9% nhận hỗ trợ từ công ty mẹ. Trong khi đó, các nguồn vốn bên ngoài như tín dụng thương mại (31,6%), thuê tài chính (14%) hay hợp tác liên doanh (5,3%) ít được khai thác. Đáng chú ý, chỉ 7% doanh nghiệp được hỗ trợ từ chương trình của Chính phủ, cho thấy mức độ tiếp cận với các chính sách tài chính công còn rất hạn chế. Sự phụ thuộc vào nguồn vốn nội bộ và thiếu cơ chế huy động vốn đa dạng đang làm giảm khả năng mở rộng và đổi mới công nghệ một cách linh hoạt và toàn diện.
Kết quả khảo sát cũng phản ánh thực trạng hệ thống hỗ trợ từ phía Nhà nước còn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Mặc dù 37% doanh nghiệp nhận được hỗ trợ chính sách và khoảng 28% được hỗ trợ về đất đai, mặt bằng hoặc tập huấn nâng cao năng lực, các hình thức hỗ trợ chuyên sâu như tư vấn kỹ thuật (14,8%), cung cấp thông tin thị trường mới (20,8%) và hỗ trợ thủ tục hành chính (18,5%) vẫn còn khá thấp. Đặc biệt, có tới 89,8% doanh nghiệp không nhận được hỗ trợ thực hiện dự án ĐMST cụ thể.
Về khả năng học hỏi từ bên ngoài, Hình 5 chỉ ra rằng doanh nghiệp chủ yếu dựa vào nguồn thông tin nội bộ, khách hàng và nhà cung cấp. Tỷ lệ đánh giá cao lần lượt là 28,2% (nội bộ/tập đoàn), 26,9% (khách hàng), 22,2% (nhà cung cấp) và 21,8% (doanh nghiệp cùng ngành). Trong khi đó, các kênh tri thức chuyên sâu như chuyên gia tư vấn (17,1%), trường đại học/viện nghiên cứu (12%), triển lãm - hội chợ (15,7%) hay hiệp hội ngành nghề (12,5%) được đánh giá thấp, cho thấy mức độ liên kết với các tổ chức KHCN còn yếu. Việc chưa khai thác hiệu quả các nguồn tri thức chuyên sâu là một điểm nghẽn lớn, hạn chế khả năng đổi mới có chiều sâu và bền vững.
Hình 5: Khả năng tiếp thu tri thức từ các nguồn bên ngoài doanh nghiệp
![]() |
Nguồn: Khảo sát của nhóm nghiên cứu
Tổ chức hoạt động đổi mới sáng tạo
Phần lớn doanh nghiệp gặp khó khăn trong tổ chức hoạt động ĐMST, với tỷ lệ đánh giá tích cực còn hạn chế (Hình 6). Tỷ lệ đánh giá “bình thường” chiếm chủ yếu (31%-36,6%) ở các hoạt động như phát triển sản phẩm mới, ứng dụng công nghệ, tiếp cận công nghệ tiên tiến hay hiệu quả đầu tư R&D. Tỷ lệ đánh giá “dễ dàng” chỉ dao động từ 8,8%-15,3%, trong khi mức “rất dễ dàng” gần như không đáng kể (0,5%-1,9%). Khoảng 10% doanh nghiệp đánh giá các hoạt động này là “khó khăn” hoặc “rất khó khăn”. Kết quả này phản ánh rõ những thách thức về năng lực nội tại và môi trường hỗ trợ doanh nghiệp.
Hình 6: Đánh giá chung về việc tổ chức các hoạt động đổi mới của doanh nghiệp
![]() |
Nguồn: Khảo sát của nhóm nghiên cứu
Trình độ công nghệ hiện tại của doanh nghiệp
Đa số doanh nghiệp tự đánh giá công nghệ ở mức trung bình trở lên, trong đó 40,3% ở mức “trung bình”, 38,9% ở mức “trung bình nâng cao” và 7,4% cho rằng đã đạt mức “trung bình cao”. Tuy nhiên, vẫn có tới 13,4% sử dụng công nghệ “lỗi thời/lạc hậu” hoặc “rất lạc hậu”.
Áp dụng tiêu chuẩn quản lý tại doanh nghiệp
Hình 7 cho thấy các doanh nghiệp đã bắt đầu áp dụng một số tiêu chuẩn quản lý chất lượng, trong đó ISO 9001 là tiêu chuẩn phổ biến nhất, được 68,1% doanh nghiệp áp dụng. 5S cũng có mặt tại 40,3% doanh nghiệp. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn chuyên sâu như HACCP, SA8000, GMP và các tiêu chuẩn quốc tế khác như ISO 22000, ISO 14001, BRC… vẫn còn hạn chế.
Hình 7: Tiêu chuẩn áp dụng tại doanh nghiệp
![]() |
Nguồn: Khảo sát của nhóm nghiên cứu
Đánh giá vai trò của hoạt động R&D
R&D được doanh nghiệp đánh giá cao trong chiến lược phát triển. Cụ thể, 39,7% đánh giá là “rất quan trọng”, 44,7% là “quan trọng”, trong khi chỉ 2,8% cho rằng “không quan trọng”. Đây là dấu hiệu tích cực cho thấy xu hướng chuyển dịch sang đầu tư vào tri thức và công nghệ đang ngày càng rõ nét, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng thích ứng với thị trường.
Môi trường và hỗ trợ chính sách
Kết quả khảo sát doanh nghiệp cho thấy nhu cầu rõ rệt về một hệ thống chính sách hỗ trợ ĐMST toàn diện, không chỉ tập trung vào hỗ trợ tài chính mà còn bao gồm cải cách hành chính, phát triển hạ tầng và nâng cao năng lực nội tại của doanh nghiệp. Cụ thể, nhóm giải pháp về hỗ trợ tài chính và chính sách ưu đãi được nhiều doanh nghiệp đánh giá cao, trong đó 36,1% mong muốn giảm thuế, 31,1% cần tín dụng ưu đãi và trên 75% đánh giá hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu - phát triển công nghệ là rất cần thiết. Bên cạnh đó, 34,4% doanh nghiệp cho rằng cải cách thủ tục hành chính là ưu tiên hàng đầu để giảm rào cản trong triển khai các hoạt động đổi mới. Về hạ tầng, hơn 75% doanh nghiệp nhấn mạnh sự cần thiết của đầu tư vào cơ sở vật chất KHCN và công nghệ số nhằm nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh. Ngoài ra, các hỗ trợ phi tài chính như tư vấn quản lý, đào tạo nhân lực và cung cấp thông tin thị trường cũng được 70-80% doanh nghiệp đánh giá là cần thiết (Hình 8), phản ánh nhu cầu phát triển năng lực nội tại.
Hình 8: Các giải pháp chính sách tạo điều kiện giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để tăng năng suất lao động trong thời gian tới
![]() |
Nguồn: Khảo sát của nhóm nghiên cứu
KẾT LUẬN
Dựa trên những phân tích về bức tranh hoạt động KHCN và ĐMST trong khu vực doanh nghiệp tại tỉnh Ninh Bình, có thể thấy tỉnh đã đạt được nhiều chuyển biến tích cực, đặc biệt trong việc cải thiện môi trường kinh doanh và thúc đẩy chính quyền số. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những hạn chế trong thực tiễn tại các doanh nghiệp như đầu tư R&D, phát triển vốn con người, khả năng tiếp cận nguồn lực ĐMST của doanh nghiệp và các thủ tục hành chính. Tỷ lệ doanh nghiệp chủ động đổi mới sản phẩm, quy trình hay marketing còn thấp và sự phụ thuộc lớn vào nguồn vốn tự có cho thấy các cơ chế hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả và dễ tiếp cận.
Để duy trì đà phát triển và thực sự bứt phá trong bối cảnh hội nhập, Ninh Bình cần có những chính sách đột phá và đồng bộ hơn nữa. Điều này bao gồm việc tăng cường đầu tư mạnh mẽ vào nguồn nhân lực chất lượng cao và R&D, đơn giản hóa thủ tục hành chính, đẩy mạnh liên kết giữa doanh nghiệp với các tổ chức KHCN và tạo ra một hệ sinh thái ĐMST cởi mở, khuyến khích doanh nghiệp chủ động tiếp nhận và ứng dụng công nghệ. Chỉ khi đó, KHCN và ĐMST mới thực sự trở thành động lực then chốt, góp phần nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững cho Ninh Bình trong những năm tới.
(*) Nghiên cứu cập nhật tên tỉnh mới theo Nghị quyết số 202/2025/QH15.
Tài liệu tham khảo:
Cục Thống kê tỉnh Bình (2024). Niên giám Thống kê tỉnh Ninh Bình năm 2023, Nxb Thống kê.
| Ngày nhận bài: 17/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 10/7/2025; Ngày duyệt đăng: 22/7/2025 |









Bình luận