ThS, NCS. Vũ Bá Hải

Email: vuhaikinhte@gmail.com

Trường Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh

Tóm tắt

Bài viết phân tích thực trạng lao động trong các DNNVV ngành sản xuất chế biến thực phẩm (SXCBTP) tại TP. Hồ Chí Minh, với những kết quả đạt được và khó khăn như: trình độ lao động chưa đồng đều, thiếu hụt nhân lực có tay nghề cao, cũng như mức độ gắn kết giữa người lao động và doanh nghiệp còn thấp. Bên cạnh đó, các yếu tố, như: điều kiện làm việc, chính sách đãi ngộ và cơ hội đào tạo cũng ảnh hưởng đáng kể đến khả năng phát triển nguồn nhân lực tại địa phương. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động, bao gồm cải thiện chính sách tuyển dụng và đào tạo, tăng cường ứng dụng công nghệ trong sản xuất để giảm phụ thuộc vào lao động phổ thông, cũng như xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp và bền vững. Những giải pháp này không chỉ giúp các doanh nghiệp nâng cao năng suất, mà còn góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế TP. Hồ Chí Minh trong tương lai.

Từ khóa: Phát triển lao động, Doanh nghiệp nhỏ và vừa, ngành sản xuất chế biến thực phẩm

Summary

The article analyzes the current labor situation in small and medium-sized enterprises in the food processing industry in Ho Chi Minh City, with the achievements and difficulties such as: uneven labor qualifications, shortage of skilled workers, as well as low level of engagement between workers and enterprises. In addition, factors such as: working conditions, remuneration policies and training opportunities also significantly affect the ability to develop local human resources. On that basis, the article proposes solutions to improve labor quality, including improving recruitment and training policies, increasing the application of technology in production to reduce dependence on unskilled labor, as well as building a professional and sustainable working environment. These solutions not only help businesses improve productivity, but also contribute to shifting the labor structure towards industrialization and modernization, meeting the needs of economic development in Ho Chi Minh City in the future.

Keywords: Labor development, Small and medium-sized enterprises, food processing industry

GIỚI THIỆU

Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn của cả nước, trong đó ngành chế biến lương thực, thực phẩm đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong ngành này chiếm tỷ trọng lớn, góp phần tạo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương. Trong giai đoạn từ 2011 đến 2023, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong ngành sản xuất chế biến thực phẩm (SXCBTP) tại TP. Hồ Chí Minh đã không ngừng phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng hoạt động, trở thành một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế địa phương. Sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp trong ngành này phản ánh rõ nhu cầu ngày càng tăng về thực phẩm an toàn, chất lượng và đa dạng của người dân thành phố, cũng như khu vực lân cận. Đồng thời, nó còn cho thấy khả năng thích ứng linh hoạt của các doanh nghiệp trong một môi trường kinh tế liên tục biến đổi và cạnh tranh gay gắt.

Thực tế cho thấy, các phân khúc trong ngành SXCBTP đã ghi nhận sự tăng trưởng đáng kể về số lượng doanh nghiệp, minh chứng cho sự chuyển dịch tích cực của ngành thực phẩm chế biến, trong đó, chế biến, bảo quản thịt và các sản phẩm từ thịt là một trong những lĩnh vực có sự tăng trưởng ấn tượng. Lĩnh vực chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản cũng có bước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong giai đoạn 2018 - 2020. DNNVV trong ngành đã tập trung đầu tư vào công nghệ bảo quản, chế biến và xuất khẩu để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế khắt khe. Mặc dù phải đối diện với những thách thức, như: chi phí logistics cao và cạnh tranh từ các doanh nghiệp lớn, lĩnh vực này vẫn khẳng định vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế địa phương và tạo việc làm cho hàng nghìn lao động.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, sự phát triển lao động trong các doanh nghiệp này còn gặp nhiều thách thức, gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động cũng như tương lai bền vững của các doanh nghiệp. Vì vậy, việc nghiên cứu về thực trạng phát triển lao động trong các DNNVV trong lĩnh vực này là hết sức cần thiết, góp phần đưa ra được các giải pháp cải thiện hữu hiệu tình hình phát triển lao động, đảm bảo sự vận hành và phát triển bền vững của DNNVV tại địa bàn TP. Hồ Chí Minh.

THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VÀ THU NHẬP CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DNNVV NGÀNH SXCBTP TRÊN ĐỊA BÀN TP. HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2011-2023

Trong giai đoạn từ năm 2011-2023, DNNVV ngành SXCBTP tại TP. Hồ Chí Minh đã đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần ổn định kinh tế - xã hội và giảm tỷ lệ thất nghiệp trên địa bàn Thành phố. Theo số liệu thống kê, trong tổng số lao động làm việc trong DNNVV, số lượng lao động được sử dụng trong ngành SXCBTP chiếm một tỷ trọng nhỏ nhưng ổn định và có xu hướng tăng lên qua các năm, phản ánh khả năng tạo việc làm của ngành này trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều thách thức (Tổng cục Thống kê, 2024).

Hình 1: Số lượng lao động làm việc trong các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh

Đơn vị: Người

Thực trạng phát triển lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành sản xuất chế biến thực phẩm trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh

Nguồn: Tính toán của tác giả

Cụ thể, theo số liệu tính toán của tác giả dựa trên dữ liệu của Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2011-2023 (Hình 1), năm 2011, lực lượng lao động trong các DNNVV ngành SXCBTP là 22.122 người, chiếm 0,57% tổng lực lượng lao động và khoảng 1,72% trong tổng số lao động của DNNVV. Mặc dù con số này còn khiêm tốn, nhưng với đặc thù của ngành SXCBTP là tập trung vào các hoạt động sản xuất và chế biến thực phẩm tiêu dùng hàng ngày, các doanh nghiệp trong ngành đã có những đóng góp không nhỏ vào việc duy trì việc làm ổn định, đặc biệt là đối với nhóm lao động có kỹ năng trung bình và thấp. Đồng thời, trong bối cảnh tỷ lệ thiếu việc làm trên địa bàn thành phố vào năm 2011 chỉ ở mức 0,37%, có thể thấy rằng, hoạt động của các DNNVV ngành SXCBTP đã góp phần quan trọng trong việc duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp.

Giai đoạn 2013-2015 tiếp tục cho thấy xu hướng tích cực trong việc sử dụng lao động của các DNNVV ngành SXCBTP. Năm 2013, số lao động trong ngành đạt 17.933 người, tương ứng với 0,44% tổng số lao động toàn Thành phố và 1,52% trong tổng số lao động DNNVV. Mặc dù con số này có sự sụt giảm nhẹ so với năm 2011, nhưng trong bối cảnh lực lượng lao động trong khu vực DNNVV giảm còn 1.181.404 người, sự ổn định của lao động trong ngành SXCBTP là một điểm sáng đáng ghi nhận.

Đến năm 2015, lao động trong ngành SXCBTP tăng lên 19.140 người, chiếm 0,46% tổng lao động và 1,47% trong tổng lao động của DNNVV. Đây là thời kỳ ghi nhận sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế sau giai đoạn suy giảm, với nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được ban hành. Đặc biệt, các doanh nghiệp SXCBTP đã đẩy mạnh đầu tư vào sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa, tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho người lao động. Giai đoạn từ 2017-2019 chứng kiến sự tăng trưởng rõ nét về số lượng lao động trong DNNVV ngành SXCBTP, đồng thời, cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của ngành này trong việc tạo việc làm ổn định và giảm áp lực cho thị trường lao động. Năm 2017, lao động trong ngành đạt 18.752 người, mặc dù chiếm tỷ lệ nhỏ (0,42%) trong tổng lực lượng lao động của Thành phố, nhưng đã đóng góp vào việc duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp. Sang năm 2019, số lượng lao động trong DNNVV ngành SXCBTP tăng lên 20.869 người, chiếm 0,44% tổng lực lượng lao động. Trong khi đó, tỷ lệ thiếu việc làm của thành phố ở mức 0,26%, phản ánh vai trò của các doanh nghiệp SXCBTP nói riêng và các DNNVV nói chung trong việc cung ứng việc làm và ổn định kinh tế địa phương.

Đến năm 2020, khi đại dịch Covid-19 bùng phát và gây ra nhiều khó khăn cho nền kinh tế toàn cầu, thị trường lao động tại TP. Hồ Chí Minh cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực. Tỷ lệ thiếu việc làm của thành phố tăng lên 3,59%, một mức cao nhất trong nhiều năm qua. Trong bối cảnh đó, các DNNVV nói chung và DNNVV ngành SXCBTP nói riêng đã thể hiện vai trò quan trọng trong việc duy trì việc làm cho người lao động. Số lượng lao động trong ngành SXCBTP tăng nhẹ lên 21.283 người, chiếm 0,45% tổng số lao động và khoảng 1,38% trong tổng số lao động của DNNVV. Dù gặp nhiều thách thức, như: đứt gãy chuỗi cung ứng, chi phí sản xuất tăng cao, các doanh nghiệp SXCBTP vẫn nỗ lực duy trì hoạt động, đảm bảo việc làm cho lao động, đặc biệt là nhóm lao động phổ thông.

Bước sang giai đoạn 2021-2023, tình hình thị trường lao động tại TP. Hồ Chí Minh dần phục hồi sau đại dịch Covid-19. Năm 2021, số lao động trong DNNVV ngành SXCBTP là 18.353 người, chiếm 0,40% tổng số lao động của Thành phố và khoảng 1,65% trong tổng số lao động của DNNVV. Tỷ lệ thiếu việc làm tuy giảm còn 1,02%, nhưng vẫn ở mức cao so với các năm trước. Đến năm 2022, lao động trong ngành SXCBTP tăng nhẹ lên 18.410 người, cho thấy nỗ lực phục hồi của các doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn. Năm 2023, số lao động trong ngành tăng lên 20.433 người, chiếm 0,42% tổng lao động và 1,70% trong tổng lao động của DNNVV. Cùng với đó, tỷ lệ thiếu việc làm trên địa bàn Thành phố cũng giảm xuống 1,77%, phản ánh sự phục hồi tích cực của thị trường lao động với sự đóng góp đáng kể từ các DNNVV ngành SXCBTP.

Nhìn chung, trong suốt giai đoạn từ 2011 đến 2023, các DNNVV ngành SXCBTP tại TP. Hồ Chí Minh đã cho thấy vai trò quan trọng trong việc sử dụng lao động và góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp trên địa bàn Thành phố. Mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lực lượng lao động, nhưng các doanh nghiệp này đã tạo ra hàng nghìn việc làm ổn định cho người lao động, đặc biệt là trong các giai đoạn kinh tế gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, với đặc thù là ngành sản xuất chế biến thực phẩm, các DNNVV SXCBTP không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của người dân, mà còn góp phần ổn định xã hội, duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế địa phương. Quan trọng hơn nữa là, mặc dù bị ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và biến động phức tạp của tình hình thế giới, nhưng trong những năm gần đây, thu nhập của người lao động trong các DNNVV ngành SXCBTP của Thành phố vẫn được đảm bảo (Hình 2).

Hình 2: Thu nhập bình quân theo tháng của lao động trong DNNVV ngành SXCBTP trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2011-2023

Đơn vị: Triệu đồng

Thực trạng phát triển lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành sản xuất chế biến thực phẩm trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh

Nguồn: Tính toán của tác giả

Số liệu tổng hợp và tính toán của tác giả từ dữ liệu của Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2011-2023 cho thấy, trong giai đoạn này, các DNNVV ngành SXCBTP tại TP. Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả nổi bật về thu nhập, phản ánh sự phát triển ổn định và tiềm năng lớn của ngành trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng. Thông qua số liệu thu nhập bình quân tháng, có thể thấy, các doanh nghiệp trong từng phân khúc của ngành SXCBTP đã có sự chuyển biến tích cực cả về quy mô lẫn hiệu quả kinh doanh, dù vẫn còn tồn tại một số khó khăn nhất định.

Trước hết, lĩnh vực chế biến, bảo quản thịt và các sản phẩm từ thịt đã duy trì được tốc độ tăng trưởng đều đặn trong suốt hơn một thập kỷ. Từ mức thu nhập bình quân 3,79 triệu đồng/tháng năm 2011, con số này đã tăng lên 10,25 triệu đồng/tháng vào năm 2023, tương đương mức tăng gần 2,7 lần. Đặc biệt, trong giai đoạn 2018-2020, thu nhập của lao động tại các DNNVV trong ngành có bước nhảy vọt, từ 6,49 triệu đồng năm 2018 lên 8,82 triệu đồng năm 2020. Sự tăng trưởng này phản ánh nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm thịt chế biến sẵn tăng mạnh, đặc biệt là trong thời kỳ dịch Covid-19, khi thói quen tiêu dùng của người dân dần thay đổi, ưu tiên các sản phẩm tiện lợi và an toàn hơn. Tuy nhiên, mức thu nhập của người lao động trong ngành tăng trưởng chậm lại vào các năm 2022-2023 (9,52-10,25 triệu đồng/tháng), cho thấy doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn do phải đối diện với áp lực chi phí nguyên liệu và cạnh tranh gay gắt trên thị trường.

Lĩnh vực chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tiếp tục khẳng định vị thế là ngành có thu nhập cao trong toàn ngành SXCBTP. Năm 2011, thu nhập của lao động trong doanh nghiệp ngành này đạt 20,96 triệu đồng/tháng. Đến năm 2023, con số này đã tăng lên 28,21 triệu đồng/tháng. Đặc biệt, năm 2015 ghi nhận mức thu nhập 24,11 triệu đồng/tháng, đánh dấu sự phục hồi mạnh mẽ của doanh nghiệp trong ngành nhờ việc mở rộng thị trường xuất khẩu và cải tiến công nghệ chế biến. Tuy nhiên, từ năm 2018 trở đi, mức tăng trưởng có dấu hiệu chậm lại, với mức thu nhập của người lao động tại các doanh nghiệp chỉ đạt 20,11 triệu đồng năm 2018 và tăng lên 28,21 triệu đồng vào năm 2023. Điều này cho thấy, doanh nghiệp trong ngành vẫn đang gặp thách thức từ chi phí vận chuyển và các tiêu chuẩn khắt khe từ thị trường quốc tế, nhưng tiềm năng phát triển vẫn rất lớn nhờ lợi thế nguồn nguyên liệu dồi dào từ các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Ngành chế biến và bảo quản rau quả cũng ghi nhận sự tăng trưởng ổn định trong suốt giai đoạn này. Thu nhập bình quân tháng của lao động trong DNNVV tăng từ 9,83 triệu đồng năm 2011 lên 19,34 triệu đồng vào năm 2023, tức tăng gần 2 lần. Đây là kết quả của xu hướng tiêu dùng ngày càng ưu tiên các sản phẩm rau củ chế biến sẵn và đảm bảo an toàn thực phẩm. Đặc biệt, giai đoạn 2018-2020 chứng kiến sự tăng trưởng ấn tượng, với thu nhập từ 18,60 triệu đồng năm 2018 tăng lên 19,42 triệu đồng năm 2020. Điều này phản ánh sự tăng trưởng mạnh mẽ về thu nhập của người lao động trong ngành nhờ sự đầu tư mạnh mẽ của các doanh nghiệp vào dây chuyền sản xuất hiện đại và công nghệ bảo quản, giúp kéo dài thời gian sử dụng và nâng cao giá trị sản phẩm.

Bên cạnh đó, lĩnh vực sản xuất thực phẩm khác là phân khúc có đóng góp lớn nhất về thu nhập trong toàn ngành SXCBTP. Năm 2011, thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp đạt 35,65 triệu đồng/tháng, và con số này tăng lên 105,89 triệu đồng/tháng vào năm 2023, tương đương mức tăng gần 3 lần. Đây là lĩnh vực có tính đa dạng cao, bao gồm các sản phẩm, như: bánh kẹo, đồ uống đóng chai, thực phẩm ăn liền và các sản phẩm đóng gói cao cấp khác. Sự tăng trưởng mạnh mẽ này xuất phát từ nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng đô thị đối với các sản phẩm tiện lợi và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Ngành sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản cũng có sự phát triển đáng kể, với thu nhập của người lao động tăng từ 4,74 triệu đồng/tháng năm 2011 lên 12,52 triệu đồng/tháng năm 2023, tương đương tăng hơn 2,6 lần. Đây là ngành có vai trò quan trọng trong chuỗi giá trị nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa và hỗ trợ ngành chăn nuôi phát triển bền vững. Đặc biệt, giai đoạn 2018-2023 cũng có xu hướng tăng trưởng rất mạnh, cho thấy sự tăng trưởng liên tục, phản ánh nhu cầu cao về thức ăn chăn nuôi chất lượng.

Nhìn chung, sự phát triển về thu nhập của lao động trong các DNNVV trong ngành SXCBTP tại TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2011 - 2023 là minh chứng rõ nét cho tiềm năng phát triển và vai trò không thể thay thế của ngành này đối với nền kinh tế thành phố. Các DNNVV đã không ngừng đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ, từ đó tạo ra sự tăng trưởng ổn định về thu nhập và đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế. Dù phải đối mặt với nhiều thách thức như chi phí đầu vào tăng cao, yêu cầu khắt khe về chất lượng và an toàn thực phẩm, các DNNVV trong ngành SXCBTP vẫn cho thấy khả năng thích ứng linh hoạt và sự bền bỉ trong quá trình phát triển. Trong tương lai, với sự hỗ trợ từ chính sách của Thành phố và sự đầu tư vào công nghệ, các DNNVV sẽ tiếp tục phát huy tiềm năng, đóng góp tích cực vào chuỗi cung ứng thực phẩm và thúc đẩy sự phát triển bền vững của TP. Hồ Chí Minh.

NHỮNG THÁCH THỨC TRONG THU HÚT VÀ PHÁT TRIỂN LAO ĐỘNG CỦA DNNVV TRONG NGÀNH CBSXTP TẠI TP. HỒ CHÍ MINH

Mặc dù đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và góp phần tạo việc làm cho hàng nghìn lao động, các DNNVV ngành SXCBTP tại TP. Hồ Chí Minh vẫn đối mặt với nhiều thách thức trong việc thu hút và phát triển nguồn nhân lực, cụ thể như sau:

Thứ nhất, là tình trạng thiếu lao động có tay nghề cao. Với đặc thù của ngành SXCBTP đòi hỏi kỹ năng chuyên môn về chế biến, bảo quản thực phẩm, cũng như vận hành máy móc, nhưng phần lớn lao động trong ngành lại thuộc nhóm có trình độ trung bình hoặc thấp. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến năng suất lao động, mà còn gây khó khăn trong việc áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất.

Thứ hai, mức lương và chế độ đãi ngộ tại các DNNVV chưa thực sự hấp dẫn so với các doanh nghiệp lớn cùng ngành hoặc các lĩnh vực khác khiến sự gắn kết của người lao động với DNNVV trong ngành còn yếu. Nhiều lao động trẻ có xu hướng lựa chọn công việc trong các ngành dịch vụ, thương mại với mức thu nhập và điều kiện làm việc tốt hơn, khiến ngành SXCBTP gặp khó khăn trong việc duy trì lực lượng lao động ổn định. Thêm vào đó, điều kiện làm việc tại một số doanh nghiệp chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn về an toàn lao động và môi trường làm việc, làm giảm sự hấp dẫn đối với người lao động.

Thứ ba, việc phát triển và đào tạo lao động cũng là một bài toán nan giải đối với các DNNVV ngành SXCBTP. Nhiều doanh nghiệp có quy mô nhỏ, nguồn lực tài chính hạn chế, chưa thể đầu tư mạnh vào các chương trình đào tạo chuyên sâu để nâng cao tay nghề cho công nhân. Ngoài ra, sự thiếu hụt các chương trình liên kết giữa doanh nghiệp với các trường đào tạo nghề cũng khiến quá trình tuyển dụng và nâng cao trình độ cho lao động gặp nhiều trở ngại.

Thứ tư, là sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường lao động. Khi nền kinh tế phục hồi sau đại dịch, nhu cầu tuyển dụng tăng cao, các ngành nghề khác, như: công nghệ, tài chính, thương mại điện tử… thu hút nhiều lao động hơn, làm cho ngành SXCBTP càng khó tìm kiếm nhân sự phù hợp, đặc biệt là đối với các DNNVV. Hơn nữa, với xu hướng tự động hóa và ứng dụng công nghệ vào sản xuất, các doanh nghiệp phải đối diện với bài toán chuyển đổi lao động từ công việc giản đơn sang các vị trí đòi hỏi kỹ năng cao hơn

ĐỀ XUẤT HÀM Ý CHÍNH SÁCH

Để giải quyết các khó khăn, thách thức nói trên, rất cần có các giải pháp kịp thời nhằm cải thiện tình trạng thiếu hụt lao động, giảm thiếu ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng sản phẩm và khả năng phát triển bền vững của DNNVV trên địa bàn Thành phố. Theo đó, cần có những chính sách cụ thể để hỗ trợ doanh nghiệp trong việc thu hút và giữ chân lao động, cụ thể như sau.

Một là, cần tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo nhằm cung cấp nguồn nhân lực có chuyên môn phù hợp. Chính quyền địa phương nên khuyến khích doanh nghiệp phối hợp với các trường đại học, cao đẳng và trung tâm đào tạo nghề để xây dựng chương trình đào tạo thực tiễn, giúp sinh viên có cơ hội thực hành và tiếp cận sớm với ngành SXCBTP.

Hai là, doanh nghiệp cần được hỗ trợ nâng cao chế độ đãi ngộ và cải thiện môi trường làm việc để thu hút lao động. Các chính sách ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp sẽ giúp các DNNVV cải thiện chế độ lương thưởng hấp dẫn, bảo đảm điều kiện lao động an toàn cho người lao động, từ đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng khả năng cạnh tranh.

Ba là, việc thúc đẩy chuyển đổi công nghệ và nâng cao kỹ năng lao động là rất cần thiết. Thành phố cần nghiên cứu có các chương trình hỗ trợ DNNVV bên cạnh các chính sách hỗ trợ chung của Nhà nước, đặc biệt là chính sách hỗ trợ đầu tư vào công nghệ sản xuất hiện đại, giúp giảm sự phụ thuộc vào lao động phổ thông. Đồng thời, cần triển khai các khóa đào tạo kỹ năng số và vận hành máy móc để người lao động thích ứng với xu hướng công nghệ mới.

Bốn là, chú trọng chính sách thu hút và giữ chân lao động tại các DNNVV trong ngành SXCBTP. Theo đó, hỗ trợ DNNVV có điều kiện giúp đỡ cung cấp nơi ở, bảo hiểm xã hội, trợ cấp đi lại và các phúc lợi xã hội khác nhằm nâng cao đời sống cho người lao động. Bên cạnh đó, cần có cơ chế khen thưởng, lộ trình thăng tiến rõ ràng để khuyến khích người lao động gắn bó lâu dài.

Tóm lại, với sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền, doanh nghiệp và cơ sở đào tạo, ngành SXCBTP tại TP.HCM có thể giải quyết bài toán nhân lực, đảm bảo phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Acemoglu, D., and Robinson, J. A. (2012), Why nations fail: The origins of power, prosperity, and poverty, Crown Business.

2. Food and Agriculture Organization (FAO). (2021). The state of food and agriculture 2021: Making agrifood systems more resilient to shocks and stresses, FAO Publishing.

3. United Nations Industrial Development Organization (UNIDO) (2020). Industrial development report 2020: Industrializing in the digital age, UNIDO Publishing.

4. Tổng cục Thống kê (2024), Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động phân theo địa phương chia theo tỉnh/thành phố và năm, truy cập từ https://www.gso.gov.vn/px-web-2/?pxid=V0270&theme=D%C3%A2n%20s%E1%BB%91%20v%C3%A0%20lao%20%C4%91%E1%BB%99ng.

Ngày nhận bài: 15/02/2025; Ngày phản biện: 25/02/2025; Ngày duyệt đăng: 26/02/2025