Thực trạng tỷ lệ bao phủ nợ xấu của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay và gợi ý chính sách
Vũ Anh Quân (Tác giả liên hệ)
Email: vuanhquan@apd.edu.vn
Đỗ Thanh Hương
Học viện Chính sách và Phát triển
Tóm tắt
Nghiên cứu tập trung phân tích thực trạng tỷ lệ bao phủ nợ xấu của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam dựa trên số liệu các ngân hàng đang niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HOSE). Kết quả đánh giá cho thấy có sự chênh lệch đáng kể giữa các ngân hàng, phản ánh sự khác biệt về chính sách trích lập dự phòng, năng lực quản trị rủi ro và mức độ thận trọng tài chính. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu ảnh hưởng nhiều chiều đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng dựa trên tỷ lệ lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE). Việc duy trì tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức cao không chỉ giúp các NHTM Việt Nam tăng cường năng lực chống chịu rủi ro mà còn góp phần ổn định hệ thống tài chính và thúc đẩy quá trình lưu thông vốn trong nền kinh tế. Tuy nhiên, khi duy trì tỷ lệ bao phủ nợ xấu quá cao cũng ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận của ngân hàng. Do đó, tăng cường quản trị nợ xấu và kiểm soát chất lượng tín dụng, nâng cao năng lực tài chính cần là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển bền vững của các NHTM Việt Nam.
Từ khoá: Nợ xấu, tỷ lệ bao phủ nợ xấu, ngân hàng thương mại, dự phòng rủi ro
Summary
This study analyzes the current status of the non-performing loan coverage ratio among Vietnamese commercial banks, based on data from banks listed on the Ho Chi Minh City Stock Exchange (HOSE). The findings reveal significant disparities across banks, reflecting differences in provisioning policies, risk management capacity, and financial prudence. The non-performing loan coverage ratio exerts multidimensional impacts on bank performance, particularly in relation to return on equity (ROE). Maintaining a high non-performing loan coverage ratio not only enhances the resilience of Vietnamese commercial banks but also contributes to financial system stability and facilitates capital circulation in the economy. However, excessively high coverage levels may substantially reduce bank profitability. Therefore, strengthening non-performing loan management, improving credit quality control, and enhancing financial capacity should be prioritized in the sustainable development strategies of Vietnamese commercial banks.
Keywords: Non-performing loans, non-performing loans coverage ratio, commercial banks, loan loss provision
GIỚI THIỆU
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với nhiều biến động từ những tác động hậu đại dịch COVID-19, suy thoái kinh tế toàn cầu và khủng hoảng bất động sản, hệ thống NHTM đứng trước áp lực gia tăng nợ xấu (NPL). Tỷ lệ nợ xấu hay mức độ bao phủ nợ xấu (NPL CR) không chỉ phản ánh chất lượng tín dụng mà còn là chỉ báo quan trọng về sự ổn định tài chính của các ngân hàng.
Tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) liên tục siết chặt quy định về trích lập dự phòng rủi ro, đòi hỏi các ngân hàng duy trì tỷ lệ bao phủ nợ xấu đủ mạnh để đảm bảo an toàn hệ thống. Tuy nhiên, một số ngân hàng có dấu hiệu che giấu nợ xấu thông qua các khoản gia hạn, cơ cấu lại nợ, khiến việc đánh giá chính xác mức độ bao phủ trở nên khó khăn. Vì vậy, việc đánh giá thực trạng tỷ lệ bao phủ nợ xấu của các NHTM tại Việt Nam hiện nay là cần thiết, qua đó đưa ra các gợi ý chính sách nhằm tăng cường quản trị nợ xấu tại các ngân hàng.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý thuyết
Hàng năm, các NHTM phải trích lập một khoản dự phòng rủi ro tín dụng. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu được xác định bằng tỷ lệ giữa tổng số dự phòng đã trích lập so với tổng số nợ xấu hiện có (LLR). Các khoản dự phòng này đóng vai trò như một "tấm đệm" tài chính, giúp hấp thụ các khoản lỗ tiềm ẩn. Khi xảy ra tổn thất tín dụng, ngân hàng có thể sử dụng quỹ dự phòng mà không ảnh hưởng đến vốn điều lệ (Lucia Alessi và cộng sự, 2021). Do đó, phần nợ xấu “chưa được bảo hiểm” phản ánh nguy cơ trực tiếp đến sự ổn định tài chính và bảng cân đối kế toán của ngân hàng.
Trong bối cảnh sự biến động của nền kinh tế, mức tín dụng tăng cao, để đảm bảo bộ đệm rủi ro tốt, mỗi ngân hàng đều phải chuẩn bị sẵn sàng cho khả năng bị thua lỗ từ hoạt động cho vay. Để bù đắp rủi ro tín dụng này, ngân hàng ước tính khoản lỗ dự kiến trong tương lai và ghi nhận khoản dự phòng tương ứng. Ghi nhận dự phòng có nghĩa là ngân hàng xác nhận khoản lỗ từ sớm đối với khoản vay. Ngân hàng sử dụng vốn tự có để hấp thụ khoản lỗ này: việc ghi nhận dự phòng làm giảm vốn chủ sở hữu của ngân hàng tương ứng với phần tiền mà họ dự kiến không thu hồi được từ khách hàng.
Ngân hàng không cần phải trích lập dự phòng cho toàn bộ giá trị khoản vay nợ xấu, vì vẫn có thể thu hồi một phần từ khách hàng, hoặc thu lại thông qua tài sản đảm bảo. Chỉ phần tổn thất ròng dự kiến mới cần được dự phòng. Tỷ lệ phần trăm khoản nợ xấu đã được dự phòng được gọi là mức độ bao phủ nợ xấu. Chỉ số này thể hiện mức độ ngân hàng đã nhận diện trước các tổn thất từ các khoản nợ xấu. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu phản ánh mức độ mà các khoản nợ xấu của ngân hàng được đảm bảo bằng quỹ dự phòng. Tỷ lệ càng cao cho thấy tổ chức có bộ đệm tài chính càng lớn để hấp thụ tổn thất từ các khoản vay có vấn đề hiện tại. Nếu tỷ lệ này vượt quá 100%, có nghĩa là quỹ dự phòng lớn hơn tổng giá trị nợ xấu hiện có, điều này sẽ giúp các ngân hàng nâng cao khả năng ứng phó đối với các rủi ro từ cho vay.
Phương pháp nghiên cứu
Nhóm tác giả sử dụng dữ liệu thứ cấp thu thập từ báo tài chính được công bố công khai của các NHTM cổ phần. Theo đó, nhóm tác giả đã tổng hợp phân tích số liệu của 18 NHTM cổ phần có quy mô lớn nhất tại Việt Nam đang được niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HOSE) với tổng tài sản dư nợ chiếm tới trên 70% của hệ thống và dữ liệu chung về hệ thống NHTM Việt Nam được công bố từ Chính phủ, NHNN. Dựa trên số liệu về trích lập dự phòng rủi ro thu thập được cũng như thực trạng nợ xấu của các NHTM, nhóm tác giả đã phân tích, so sánh các chỉ tiêu về tỷ lệ bao phủ nợ xấu, tỷ lệ nợ quá hạn, tình hình lợi nhuận trong các năm gần đây để đưa ra nhận định.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Tình hình tín dụng và nợ xấu của các NHTM Việt Nam trong những năm gần đây
Theo số liệu từ NHNN, tính đến hết quý I/2025, dư nợ tín dụng của toàn nền kinh tế Việt Nam đã đạt trên 16 triệu tỷ đồng, tăng 5,32 % so với năm 2024. Về tốc độ tăng trưởng tín dụng, Bảng 1 cho thấy, trong các năm gần đây, hệ thống ngân hàng đều có tốc độ tăng trưởng cao.
Bảng 1: Tăng trưởng tín dụng hệ thống ngân hàng giai đoạn 2017-2024
| Năm | Tăng trưởng tín dụng (%) | Năm | Tăng trưởng tín dụng (%) |
| 2017 | 18,28 | 2021 | 13,53 |
| 2018 | 13,89 | 2022 | 14,50 |
| 2019 | 13,65 | 2023 | 13,78 |
| 2020 | 12,13 | 2024 | 15,08 |
Nguồn: Thống kê của tác giả
Các ngân hàng niêm yết trên HOSE có tỷ lệ nợ xấu phần lớn được đảm bảo theo quy định ở mức dưới 3%. Tuy nhiên trong các năm 2023, 2024 và quý I/2025, một số ngân hàng có quy mô đã ra tăng nhanh tỷ lệ nợ xấu cao như VPB, VIB, SHB (Bảng 2).
Bảng 2: Tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng niêm yết trên HOSE
| STT | Ngân hàng | NPL (%) | |||||
| 2020 | 2021 | 2022 | 2023 | 2024 | Quý I/2025 | ||
| 1 | VCB | 0,62 | 0,64 | 0,68 | 0,98 | 0,95 | 1,00 |
| 2 | BIDV | 1,76 | 1,00 | 1,19 | 1,26 | 1,41 | 1,89 |
| 3 | Vietinbank | 0,95 | 1,26 | 1,24 | 1,13 | 1,24 | 1,55 |
| 4 | MBB | 1,09 | 0,90 | 1,09 | 1,60 | 1,62 | 1,84 |
| 5 | TCB | 0,47 | 0,66 | 0,72 | 1,16 | 1,12 | 1,17 |
| 6 | VPB | 3,41 | 4,57 | 3,68 | 5,02 | 4,20 | 4,74 |
| 7 | ACB | 0,59 | 0,77 | 0,74 | 1,21 | 1,49 | 1,48 |
| 8 | Sacombank | 1,70 | 1,50 | 0,98 | 2,28 | 2,40 | 2,51 |
| 9 | SHB | 1,83 | 1,69 | 2,81 | 3,02 | 3,00 | 3,33 |
| 10 | HDB | 1,32 | 1,65 | 1,67 | 1,79 | 1,93 | 2,37 |
| 11 | LPB | 1,43 | 1,37 | 1,45 | 1,34 | 1,57 | 1,74 |
| 12 | TPB | 1,18 | 0,82 | 0,84 | 2,05 | 1,52 | 2,27 |
| 13 | VIB | 1,74 | 2,32 | 2,45 | 3,14 | 3,40 | 3,79 |
| 14 | Seabank | 1,86 | 1,65 | 1,60 | 1,94 | 1,89 | 1,84 |
| 15 | MSB | 1,96 | 1,74 | 1,71 | 2,87 | 2,67 | 2,57 |
| 16 | OCB | 1,69 | 1,32 | 2,22 | 2,65 | 3,16 | 3,91 |
| 17 | Eximbank | 2,51 | 1,96 | 1,80 | 2,65 | 2,53 | 2,58 |
| 18 | Namabank | 0,83 | 1,57 | 1,63 | 2,11 | 2,33 | 2,48 |
Nguồn: Thu thập từ báo cáo tài chính các NHTM
Đánh giá mức độ bao phủ nợ xấu của các NHTM trong những năm gần đây
Với thực trạng tốc độ tăng trưởng tín dụng ngày càng tăng để đáp ứng nhu cầu nền kinh tế, các ngân hàng ngày càng đòi hỏi phải nâng cao năng lực tài chính, tăng cường mức trích dự phòng rủi ro đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay. Về bộ đệm dự phòng rủi ro tín dụng, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) tại các ngân hàng tiếp tục được cải thiện trong quý IV/2024. Phần lớn các ngân hàng ghi nhận mức gia tăng đáng kể trong quỹ dự phòng, đặc biệt rõ nét vào cuối năm. Tỷ lệ LLR bình quân toàn hệ thống đạt 91,4%, giảm 3,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, song đã tăng 10,6 điểm phần trăm so với quý II/2024. LLR trung vị cũng ghi nhận xu hướng tăng tích cực, đạt mức 68,4%, tăng 4,7 điểm phần trăm so với cùng kỳ. Xét theo từng nhóm ngân hàng, khối ngân hàng quốc doanh tiếp tục giữ vai trò dẫn dắt khi duy trì tỷ lệ LLR ở mức cao, đồng thời tiếp tục mở rộng bộ đệm qua các quý.
Qua khảo sát đối với 18 ngân hàng hàng đang niêm yết trên HOSE, nhóm tác giả thấy rằng, mức độ bao phủ nợ xấu của các ngân hàng trong những năm gần đây có xu hướng giảm (Bảng 3). Một số ngân hàng có mức độ bao phủ dưới 50% chủ yếu là các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu gia tăng. Xét theo nhóm ngân hàng, khối NHTM cổ phần nhà nước có mức bao phủ nợ xấu tốt hơn hẳn so với các ngân hàng khác. Đứng đầu là VCB với tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt trên 200%, tiếp theo là Vietinbank đạt mức trên 130%. Ngược lại, một số ngân hàng đang có mức độ bao phủ tương đối thấp như VPB, OCB, Eximbank.
Bảng 3: Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (NPL CR) của các NHTM niêm yết trên HOSE
| STT | Ngân hàng | NPL CR (%) | |||||
| 2020 | 2021 | 2022 | 2023 | 2024 | Quý I/2025 | ||
| 1 | VCB | 368,0 | 424,4 | 316,9 | 230,3 | 232,7 | 207,4 |
| 2 | BIDV | 89,2 | 214,9 | 210,4 | 180,9 | 131,0 | 96,8 |
| 3 | Vietinbank | 131,1 | 180,4 | 185,9 | 167,2 | 171,7 | 136,8 |
| 4 | MBB | 134,1 | 268,1 | 238,0 | 117,0 | 92,3 | 75,3 |
| 5 | TCB | 171,1 | 162,9 | 157,3 | 102,2 | 114,0 | 111,6 |
| 6 | VPB | 45,3 | 60,9 | 84,8 | 52,1 | 56,2 | 47,4 |
| 7 | ACB | 160,3 | 209,5 | 159,3 | 91,2 | 77,9 | 72,1 |
| 8 | Sacombank | 93,7 | 118,6 | 131,0 | 68,9 | 68,4 | 74,7 |
| 9 | SHB | 61,4 | 75,9 | 65,0 | 68,7 | 56,4 | 51,0 |
| 10 | HDB | 82,1 | 73,0 | 70,5 | 65,8 | 68,7 | 53,3 |
| 11 | LPB | 89,7 | 110,7 | 142,2 | 93,7 | 83,3 | 73,6 |
| 12 | TPB | 134,2 | 152,5 | 135,0 | 63,7 | 81,3 | 57,1 |
| 13 | VIB | 59,1 | 51,4 | 53,9 | 51,0 | 50,1 | 38,6 |
| 14 | Seabank | 54,8 | 84,7 | 98,9 | 85,5 | 82,9 | 81,8 |
| 15 | MSB | 54,2 | 95,4 | 69,2 | 55,2 | 64,1 | 59,6 |
| 16 | OCB | 62,2 | 82,7 | 59,5 | 64,1 | 47,2 | 35,0 |
| 17 | Eximbank | 50,5 | 60,8 | 55,8 | 41,2 | 42,3 | 38,7 |
| 18 | Namabank | 114,5 | 79,6 | 64,0 | 51,6 | 52,8 | 52,2 |
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo tài chính các NHTM
Đánh giá về mối quan hệ của tỷ lệ nợ xấu so với mức độ bao phủ nợ xấu, có thể thấy mức độ bao phủ nợ xấu càng thấp ở một số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng cao.
Qua phân tích tỷ lệ nợ xấu và mức độ bao phủ nợ xấu bình quân của các NHTM niêm yết trên HOSE, có thể thấy rằng, giai đoạn trước đây, các ngân hàng chưa chú trọng đến việc trích dự phòng, cho nên mặc dù tỷ lệ nợ xấu thấp nhưng mức độ bao phủ nợ xấu vẫn thấp dưới 100% vào các năm 2020, 2021. Những năm gần đây, mặc dù tỷ lệ nợ xấu có tăng nhẹ nhưng các ngân hàng gia tăng nguồn lực trích dự phòng nên tỷ lệ bao phủ nợ xấu vẫn được đảm bảo như các năm 2023, 2024. Tuy nhiên, sang đến quý I/2025, do mức trích dự phòng không có sự tăng trưởng so với dư nợ cho vay trong khi tỷ lệ nợ xấu cao đã dẫn đến mức độ bao phủ nợ xấu giảm đáng kể.
Hình 1: Tỷ lệ nợ xấu và mức độ bao phủ nợ xấu bình quân của các NHTM niêm yết trên HOSE từ năm 2020-quý I/2025
![]() |
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp và tính toán
Xét riêng trong quý I/2025 đối với từng ngân hàng, có thể thấy mức độ bao phủ nợ xấu đã giảm mạnh ở các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao như VPB, SHB, VIB cho thấy xu hướng khó khăn trong thời gian tới khi Thông tư số 02/2023/TT-NHNN đã hết hiệu lực vào 2024, do đó một loạt các khoản nợ cơ cấu sẽ chuyển sang nợ xấu nếu không có nguồn trả nợ từ khách hàng. Đánh giá về mối quan hệ giữa tỷ lệ bao phủ nợ xấu với giá trị dự phòng rủi ro cũng cho thấy tại các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu đảm bảo, giá trị dự phòng rủi ro càng cao thì mức độ bao phủ nợ xấu càng cao. Các ngân hàng này đã dành nhiều nguồn lực cho việc trích dự phòng do có nguồn vốn chủ sở hữu lớn, nguồn lợi nhuận chưa phân phối dồi dào ví dụ như các ngân hàng VCB, Vietinbank, TCB.
Hình 2: Tỷ lệ nợ xấu và mức độ bao phủ nợ xấu của các NHTM niêm yết trên HOSE quý I/2025
![]() |
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp
Ngoài ra, năng lực tài chính của các ngân hàng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc các ngân hàng có sẵn sàng nguồn lực để trích lập dự phòng được thể hiện rõ nét nhất qua quy mô nguồn vốn chủ sở hữu hay mức lợi nhuận chưa phân phối đây là nguồn lực ngân hàng giữ lại nhằm tăng vốn điều lệ hoặc duy trì để sẵn sàng sử dụng khi có các biến cố rủi ro xảy ra, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Gần đây các NHTM không ngừng ra tăng việc duy trì nguồn vốn chủ sở hữu và lợi nhuận chưa phân phối cao, đây là nguồn lực đáng kể để nâng vốn điều lệ và đáp ứng nguồn vốn cho tăng trích lập dự phòng rủi ro, đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh, đứng đầu vẫn là nhóm các ngân hàng lớn như VCB, Vietinbank, BIDV. Một số ngân hàng có quy mô thấp với mức vốn chủ sở hữu còn hạn chế, điều đó cũng được thể hiện mức độ bao phủ nợ xấu ở mức thấp như Eximbank, OCB. Như vậy, năng lực tài chính có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ bao phủ nợ xấu của NHTM.
Hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng được thể hiện rõ nét qua ROE. Qua phân tích, nhóm tác giả cũng nhận thấy mức độ bao phủ nợ xấu có ảnh hưởng ở nhiều khía cạnh khác nhau đến ROE của ngân hàng (Hình 3).
Về cơ bản, nếu các ngân hàng có mức độ bao phủ nợ xấu cao, tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp chứng tỏ họ có năng lực tài chính, có chính sách quản trị tốt. Các ngân hàng này sẽ có hiệu quả kinh doanh tốt, nó được thể hiện tại chỉ số ROE ở mức cao và bền vững như VCB, MBB, ACB. Bên cạnh đó, nếu như tăng cường việc trích dự phòng quá mức sẽ giúp cho ngân hàng đạt được mức độ bao phủ nợ xấu cao, điều này sẽ làm cho ROE lại thấp hơn so với các ngân hàng có cùng quy mô và kết quả kinh doanh, ví dụ như TCB.
Hình 3: ROE của các NHTM niêm yết trên HOSE năm 2024
![]() |
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp
Một số ngân hàng có mức độ bao phủ nợ xấu thấp hơn nhưng vẫn có ROE cao như HDB. Đây là nhóm các ngân hàng chưa dùng nhiều nguồn lực tài chính cho việc trích dự phòng và có tỷ lệ nợ xấu thấp khiến cho mức lợi nhuận vẫn được đảm bảo. Một số ngân hàng khác có mức độ bao phủ nợ xấu rất thấp trong khi ROE ở mức cao như Namabank. Các ngân hàng này có tỷ lệ nợ xấu thấp, họ chỉ trích dự phòng ở mức độ vừa đủ theo quy định và không dùng nhiều nguồn lực từ nguồn lợi nhuận chưa phân phối để trích dự phòng. Do vậy, các ngân hàng này sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn khi có các rủi ro tín dụng phát sinh mới và không kiểm soát được nợ xấu phát sinh trong tương lai.
Lại có nhóm các ngân hàng mặc dù có nguồn vốn chủ sở hữu cao nhưng lại có mức độ bao phủ nợ xấu thấp và hiệu quả kinh doanh không cao, ROE thấp như VPB. Các ngân hàng này thường có có tỷ lệ nợ xấu tăng trưởng nhanh. Một nhóm ngân hàng khác có mức độ bao phủ nợ xấu thấp và tỷ lệ ROE thấp - đây là các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu ra tăng và có nguồn vốn chủ sở hữu tương đối thấp như: Eximbank, OCB. Như vậy, mức độ bao phủ nợ xấu có ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh ở nhiều khía cạnh khác nhau, khiến cho các ngân hàng cần phải có các chính sách như chính sách tín dụng, quản trị rủi ro hiệu quả nhằm vừa đảm bảo vững chắc bộ đệm rủi ro và hiệu quả kinh doanh bền vững.
KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Trên cơ sở phân tích trên, có thể thấy rằng mức độ bao phủ nợ xấu chịu nhiều ảnh hưởng từ nợ xấu, tốc độ tăng trưởng tín dụng và năng lực tài chính của từng ngân hàng. Ngoài ra, còn chịu ảnh hưởng lớn từ những chính sách vĩ mô của chính phủ như chính sách về hạn mức tăng trưởng tín dụng của NHNN, các quy định pháp luật về trích lập dự phòng và xử lý nợ xấu… Để đảm bảo tỷ lệ bao phủ nợ xấu một cách hiệu quả, vừa đảm bảo rủi ro và đảm bảo hiệu quả kinh doanh, nghiên cứu đưa ra một số hàm ý chính sách như sau:
Đối với Nhà nước
Về chính sách tăng trưởng tín dụng, NHNN cần điều hành linh hoạt về chính sách quản lý hạn mức tăng trưởng tín dụng hàng năm. Đây là một nội dung cơ bản để đưa ra cơ sở mức trích lập dự phòng rủi ro hàng năm, ảnh hưởng đến chiến lược quản trị rủi ro của các ngân hàng. Nếu tăng trưởng tín dụng ồ ạt, xem nhẹ chất lượng, sẽ dẫn đến chất lượng nợ bị suy yếu; hoặc các ngân hàng nhỏ có năng lực tài chính yếu lại có tốc độ tăng trưởng quá cao sẽ gây ra khả năng đối phó kém khi các rủi ro xảy ra.
Thông qua việc phân nhóm các tổ chức tín dụng (TCTD) theo các chỉ tiêu đánh giá, NHNN nên xem xét thí điểm đối với một số ngân hàng có hoạt động tốt, có năng lực cao về nguồn vốn, tỷ lệ nợ xấu thấp, tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao được chủ động tăng trưởng tín dụng mà không áp dụng hạn mức tối đa giao hàng năm. Bên cạnh đó, tuỳ theo mức độ, các ngân hàng còn lại, đặc biệt các tổ chức yếu kém chưa đảm bảo chỉ số an toàn vốn tối thiểu cần phải kiểm soát tuân thủ chặt chẽ việc tăng trưởng tín dụng, thông qua việc giao và kiểm soát của NHNN. Hiện nay, các TCTD đã và đang triển khai việc áp dụng các chỉ tiêu an toàn theo chuẩn mực quốc tế trong hoạt động, đây là một thuận lợi cho việc thay đổi này. Đã có nhiều TCTD đạt chuẩn Basel II. Một số TCTD thậm chí đã và đang triển khai Basel III theo tầng mức khác nhau, từ 1 đến cả 3 trụ cột. Do đó, NHNN có thể xem xét tiêu chuẩn Basel để đánh giá sức khỏe các ngân hàng và giao quyền chủ động đối với tăng trưởng tín dụng của từng ngân hàng.
NHNN cần tăng cường công tác thanh tra giá sát ngân hàng để phát hiện các TCTD yếu kém hoặc tiềm ẩn rủi ro, đây là căn cứ để xem xét hạn tăng trưởng tín dụng và hạn chế rủi ro nợ xấu phát sinh. Bên cạnh đó, NHNN cần nghiên cứu đánh giá kỹ về các chỉ số an toàn của NHTM. Các chỉ số an toàn vốn là cơ sở để đưa ra các chính sách điều tiết nguồn lợi nhuận hàng năm của từng ngân hàng. Đối với những ngân hàng có mức độ xếp hạng kém, tiềm ẩm rủi ro và có quy mô ngồn vốn chủ sở hữu nhỏ cần phải hạn chế chia lơi nhuận hàng năm. Những ngân hàng này cần phải tích lũy để tăng vốn điều lệ đáp ứng các chỉ số an toàn và nâng cao năng lực tài chính, có nguồn tài chính tốt để trích lập dự phòng rủi ro.
Chính phủ, NHNN cũng cần đưa ra các chính sách xử lý nợ xấu nhằm đảm bảo mức độ bao phủ nợ xấu ở mức 100%. Các biện pháp xử lý nợ xấu có thể kể đến như: mua bán nợ và xử lý thông qua VAMC, cải cách khung pháp lý liên quan đến xử lý nợ, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thông qua sáp nhập các ngân hàng yếu kém, tăng vốn nâng chuẩn Basel và kiểm soát nội bộ, giám sát vĩ mô và các chính sách của NHNN.
Đối với các NHTM
Cần phải có chính sách quản lý rủi ro tín dụng phù hợp với tình hình kinh doanh, tuân thủ chính sách trích lập dự phòng rủi ro, hạch toán nợ xấu một cách minh bạch, chính xác. Để tăng trưởng tín dụng đi đôi với chất lượng tín dụng, các NHTM cần đa dạng hơn các nguồn thu nhập khác từ dịch vụ để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đây là cơ sở nâng cao năng lực tài chính để có nguồn lực cho việc trích lập rủi ro, tạo ra bộ đệm dự phòng lớn sẵn sàng đáp ứng đối với các sự cố xảy ra. Các NHTM cũng cần nâng cao năng lực nguồn vốn chủ sở hữu, tính toán cụ thể nguồn lợi nhuận để lại, xem xét đến việc chia cổ tức hàng năm từ nguồn lợi nhuận để có một nguồn lợi nhuận được tích lũy nhằm duy trì và bổ sung vốn điều lệ và nâng cao năng lực tài chính.
Tài liệu tham khảo:
1. Deniz Igan and Marcelo Pinheiro (2011). Credit Growth and Bank Soundness: Fast and Furious?, IMF Working Paper December.
2. Lucia Alessi, Brunella Bruno, Elena Carletti, Katja Neugebauer, Isabella Wolfskeil (2021). Cover your assets: non-performing loans and coverage ratios in Europe, Economic Policy, 36(108).
3. Ngọc Mai (2025). Tình hình xử lý nợ xấu ngân hàng, https://tienphong.vn/tinh-hinh-xu-ly-no-xau-ngan-hang-post1716381.tpo
4. Nguyễn Văn Tiến (2012). Tín dụng ngân hàng, Nxb Thống kê.
5. Nguyễn Thị Kim Phụng (2022). Các yếu tố ảnh hưởng đến dự phòng rủi ro tín dụng của các NHTM ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Ngân hàng châu Á, 193, 65-78.
6. Ngân hàng Nhà nước (2021). Thông tư số 21/2021/TT-NHNN ngày 30/7/2021 và các văn bản sửa đổi có liên quan, quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
7. Peter S. Rose (2001). Quản trị NHTM, Nxb Tài chính.
| Ngày nhận bài: 26/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 12/8/2025; Ngày duyệt đăng: 29/8/2025 |




Bình luận