Ứng dụng công nghệ số trong phát triển kinh tế xanh: Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam
TS. Ngô Cẩm Tú
Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông
Email: nctu@ictu.edu.vn
Tóm tắt
Bài viết phân tích vai trò và xu hướng ứng dụng công nghệ số trong phát triển kinh tế xanh, làm rõ các khái niệm cơ bản, tổng hợp kinh nghiệm quốc tế từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore về chuyển đổi số gắn với tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn và sản xuất bền vững. Trên cơ sở đó, bài báo đề xuất các định hướng và nhóm giải pháp trọng tâm nhằm thúc đẩy ứng dụng công nghệ số cho phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam, bao gồm: hoàn thiện thể chế chính sách, phát triển hạ tầng số và dữ liệu, thúc đẩy chuyển đổi số trong các lĩnh vực sản xuất – dịch vụ, phát triển tài chính xanh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và truyền thông xã hội về tăng trưởng xanh.
Từ khóa: Công nghệ số, kinh tế xanh, kinh nghiệm quốc tế, phát triển bền vững
Summary
This paper analyzes the role and trends of digital technology application in green economic development, clarifies key concepts, and synthesizes international experiences from China, South Korea, and Singapore in digital transformation associated with green growth, circular economy, and sustainable production. On that basis, the paper proposes key orientations and groups of solutions to foster the application of digital technologies in advancing Vietnam’s green economy, which includes improving policy and institutional frameworks, developing digital and data infrastructure, accelerating digital transformation in production and service sectors, advancing green finance, enhancing the quality of human resources, and strengthening public communication on green growth.
Keywords: Digital technology, green economy, international experience, sustainable development
ĐẶT VẤN ĐỀ
Công nghệ số là tập hợp các công nghệ hiện đại dựa trên nền tảng số hóa dữ liệu, bao gồm trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây, blockchain và các nền tảng tự động hóa thông minh. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số đang tạo ra nhiều mô hình sản xuất, quản trị và kinh doanh mới, góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả sử dụng tài nguyên, tăng tính minh bạch và đổi mới sáng tạo. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nhu cầu phát triển bền vững, công nghệ số ngày càng đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy kinh tế xanh, giúp tối ưu quản trị tài nguyên, kiểm soát phát thải và phát triển các mô hình sản xuất – tiêu dùng bền vững. Tuy vậy, tại Việt Nam, việc ứng dụng công nghệ số vào phát triển kinh tế xanh vẫn còn nhiều hạn chế về chính sách, hạ tầng và nhân lực. Mục tiêu nghiên cứu của bài báo là phân tích vai trò và xu hướng ứng dụng công nghệ số trong phát triển kinh tế xanh, tổng hợp kinh nghiệm quốc tế và đề xuất định hướng, nhóm giải pháp phù hợp cho Việt Nam.
KINH TẾ XANH VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ SỐ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ XANH
Kinh tế xanh là một khái niệm mới nổi trong khoa học kinh tế và phát triển bền vững, được các tổ chức quốc tế, chính phủ các nước, cũng như giới học thuật đặc biệt quan tâm trong bối cảnh toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu và cạn kiệt tài nguyên ngày càng trở thành thách thức nghiêm trọng. Theo UNEP (2011), kinh tế xanh là “nền kinh tế mang lại sự cải thiện phúc lợi con người và công bằng xã hội, đồng thời giảm đáng kể các rủi ro về môi trường và sự suy thoái sinh thái; là nền kinh tế có mức phát thải các-bon thấp, sử dụng tài nguyên hiệu quả và bao trùm xã hội” (UNEP, 2011; Nguyễn Thị Thu Hà, 2024).
Như vậy, kinh tế xanh không chỉ là sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, mà còn đề cao vai trò của công bằng xã hội trong phát triển. Về bản chất, kinh tế xanh hướng tới sự thay đổi toàn diện cả về cấu trúc kinh tế, mô hình sản xuất, công nghệ, tiêu dùng và quản trị xã hội. Theo đó, kinh tế xanh đề cao việc phát triển các ngành công nghiệp sạch, năng lượng tái tạo, sản xuất nông nghiệp bền vững, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, đồng thời kiểm soát chặt chẽ các nguồn phát thải gây ô nhiễm môi trường. Đặc biệt, kinh tế xanh coi môi trường là một trụ cột bình đẳng với kinh tế và xã hội trong chiến lược phát triển quốc gia, thông qua việc tích hợp các yếu tố môi trường vào quá trình hoạch định chính sách, đổi mới công nghệ và phân bổ nguồn lực xã hội.
Các nội dung của kinh tế xanh thường bao gồm: (i) tái cấu trúc ngành nghề theo hướng thân thiện môi trường, (ii) đổi mới và ứng dụng công nghệ xanh, (iii) thúc đẩy tiêu dùng bền vững và lối sống xanh, (iv) nâng cao nhận thức, vai trò và trách nhiệm xã hội của các chủ thể kinh tế.
Trong bối cảnh chuyển đổi số, nhiều công trình nghiên cứu quốc tế và thực tiễn phát triển ở các quốc gia lớn nhấn mạnh vai trò của kinh tế số và công nghệ số trong thúc đẩy kinh tế xanh:
Một là, công nghệ số tạo nền tảng cho việc tối ưu hóa quản lý và sử dụng tài nguyên, góp phần then chốt vào quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn. Nhờ ứng dụng các công nghệ như Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI), doanh nghiệp và cơ quan quản lý có thể giám sát liên tục chuỗi cung ứng, quản lý tiêu thụ năng lượng, nước, nguyên vật liệu, đồng thời phát hiện và xử lý các điểm lãng phí trong toàn bộ vòng đời sản phẩm. Qua đó, công nghệ số giúp giảm thất thoát, lãng phí tài nguyên và giảm thiểu phát thải ra môi trường.
Hai là, công nghệ số thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi mô hình sản xuất – tiêu dùng theo hướng xanh hóa. Các giải pháp sản xuất thông minh, nông nghiệp số, quản lý chất thải tự động, hay ứng dụng AI trong phân loại, xử lý rác thải đều làm gia tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên, nâng cao tỷ lệ tái chế và tái sử dụng nguyên vật liệu. Công nghệ blockchain còn đóng vai trò minh bạch hóa truy xuất nguồn gốc và kiểm chứng các chứng chỉ xanh, từ đó nâng cao niềm tin của thị trường cũng như hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận các thị trường xanh quốc tế.
Ba là, công nghệ số tăng cường khả năng kết nối, hợp tác và nâng cao năng lực quản trị môi trường ở cấp độ quốc gia và toàn cầu. Việc triển khai các nền tảng số cho phép các bên liên quan (doanh nghiệp, nhà nước, người tiêu dùng) dễ dàng chia sẻ thông tin, cập nhật tiến bộ công nghệ, phối hợp trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và cam kết giảm phát thải ròng bằng 0 (net-zero). Đồng thời, công nghệ số cũng mở ra các mô hình kinh doanh mới như tài chính xanh, dịch vụ quản lý phát thải, nền kinh tế tuần hoàn trên nền tảng số, góp phần gia tăng động lực đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh.
KINH NGHIỆM ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ SỐ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XANH CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
Trung Quốc là một trong những quốc gia đi đầu về ứng dụng công nghệ số thúc đẩy kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn. Chính phủ Trung Quốc xác định phát triển kinh tế số và kinh tế xanh là hai trụ cột chiến lược để chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững. Nhiều chính sách đã được ban hành nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời lồng ghép mục tiêu xanh hóa vào phát triển công nghệ, sản xuất và tiêu dùng.
Các thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải, Thâm Quyến, Quảng Châu đã triển khai mô hình đô thị thông minh, ứng dụng AI, IoT, Big Data và cảm biến môi trường để giám sát chất lượng không khí, kiểm soát ô nhiễm, dự báo tiêu thụ điện năng và quản lý chất thải, nước thải. Công nghệ số còn hỗ trợ tối ưu điều tiết giao thông, chiếu sáng công cộng, cảnh báo sớm về môi trường và nâng cao hiệu quả quản trị đô thị.
Ngoài ra, Trung Quốc đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử xanh, tài chính số cho dự án xanh, ứng dụng blockchain trong truy xuất nguồn gốc và minh bạch chuỗi cung ứng nông nghiệp. Các mô hình “tín dụng carbon số”, “ngân hàng carbon số” được thử nghiệm ở nhiều địa phương, giúp doanh nghiệp và người dân tham gia thị trường carbon minh bạch, hiệu quả hơn. Đặc biệt, Trung Quốc tiên phong tích hợp giải pháp số vào sản xuất xanh, nông nghiệp thông minh và năng lượng tái tạo. Nhiều nhà máy thông minh ứng dụng AI, robot, IoT giúp tối ưu hóa quy trình, giảm lãng phí và phát thải. Trong nông nghiệp, các hệ thống tưới tiêu tự động, cảm biến môi trường, truy xuất sản phẩm giúp tiết kiệm tài nguyên, kiểm soát chất lượng, phát triển bền vững. Những thành tựu này cho thấy vai trò trung tâm của công nghệ số trong phát triển kinh tế xanh, góp phần kiểm soát ô nhiễm, giảm phát thải và nâng cao chất lượng sống, đồng thời củng cố năng lực hội nhập quốc tế của Trung Quốc.
Hàn Quốc chú trọng đầu tư vào công nghệ số trong quản trị đô thị thông minh và phát triển năng lượng sạch. Chính phủ Hàn Quốc coi chuyển đổi số là giải pháp trọng tâm để thúc đẩy tăng trưởng xanh, trung hòa các-bon và nâng cao chất lượng sống đô thị. Chính sách “Green New Deal” từ năm 2020 nhấn mạnh vai trò của công nghệ số trong phát triển bền vững, đặc biệt ở các lĩnh vực năng lượng, giao thông, sản xuất và quản lý đô thị.
Hàn Quốc đã đồng bộ triển khai mô hình thành phố thông minh (smart city) với hệ thống cảm biến, quản lý năng lượng thông minh cho các tòa nhà, khu công nghiệp, giúp tối ưu hóa sử dụng điện, kiểm soát khí thải và phát hiện sớm các rủi ro môi trường. Giao thông xanh được phát triển nhờ ứng dụng dữ liệu lớn, IoT vào điều phối lưu lượng, khuyến khích phương tiện không phát thải, mở rộng hạ tầng xe điện và giao thông công cộng thông minh.
Trong sản xuất, các nhà máy thông minh tích hợp AI, robot, IoT, dữ liệu lớn để nâng cao hiệu suất, tiết kiệm nguyên liệu và giảm phát thải khí nhà kính, đồng thời xây dựng chuỗi cung ứng xanh đáp ứng tiêu chuẩn toàn cầu. Chính phủ hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, thúc đẩy thử nghiệm giao thông thông minh, điện lưới tích hợp năng lượng tái tạo, và quản lý môi trường bằng nền tảng số.
Hàn Quốc cũng chú trọng phát triển hạ tầng năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió kết hợp quản lý số hóa, cũng như đầu tư vào công nghệ lưu trữ năng lượng, lưới điện thông minh. Sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước, doanh nghiệp và giới khoa học cùng chính sách pháp lý đồng bộ là yếu tố giúp Hàn Quốc đạt nhiều kết quả trong xây dựng đô thị xanh, giảm phát thải và nâng cao chất lượng sống.
Singapore đã phát triển thành công mô hình thành phố xanh thông minh với việc ứng dụng công nghệ số trong mọi mặt quản lý đô thị. Chính phủ Singapore xác định công nghệ số là nền tảng quan trọng để phát triển đô thị xanh, giúp thành phố thích ứng hiệu quả với các thách thức môi trường và hướng tới phát triển bền vững. Singapore nổi bật với các giải pháp quản lý thông minh toàn diện cho hạ tầng và dịch vụ công cộng như kiểm soát không khí, nước, chiếu sáng, chất thải và giao thông thân thiện môi trường.
Quốc gia này cũng tiên phong triển khai chiến lược “Quốc gia thông minh” (Smart Nation), tích hợp dữ liệu lớn, AI, IoT vào mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội. Các dự án như “OneMap”, “Smart Water” và các hệ thống cảm biến môi trường giúp giám sát, dự báo chất lượng không khí, nước, tối ưu vận hành cấp – thoát nước, tiết kiệm tài nguyên và phòng ngừa ngập úng. Hệ thống chiếu sáng và giao thông công cộng được tự động hóa, giảm tiêu thụ năng lượng, phát thải khí nhà kính và thúc đẩy giao thông xanh. Các khu dân cư thông minh còn kết nối dữ liệu giữa điện, nước, giao thông, y tế nhằm tối ưu vận hành và kiểm soát phát thải tại nguồn.
Song song với đó, Singapore đẩy mạnh phát triển fintech xanh và các mô hình tài chính đổi mới dựa trên nền tảng số, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, huy động nguồn vốn cho các dự án bền vững. Kinh nghiệm của Singapore cho thấy, sự phối hợp hiệu quả giữa chính sách quốc gia, hạ tầng số đồng bộ và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo là yếu tố quyết định giúp thành phố duy trì vị thế đô thị xanh – thông minh hàng đầu châu Á và lan tỏa ảnh hưởng tích cực tới khu vực.
GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ SỐ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ XANH TẠI VIỆT NAM
Thực hiện quan điểm của Đại hội Đảng XIII: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”, việc thúc đẩy ứng dụng công nghệ số cho phát triển kinh tế xanh phải được xác định là một trụ cột chiến lược, lâu dài. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các quốc gia thành công đều chủ động lồng ghép mục tiêu chuyển đổi số vào chiến lược phát triển xanh, phát huy vai trò kiến tạo, điều phối của Nhà nước đồng thời tạo động lực cho doanh nghiệp và cộng đồng đổi mới sáng tạo. Dựa trên tình hình và tiềm năng của Việt Nam, định hướng và các nhóm giải pháp trọng tâm bao gồm một số nội dung sau:
Một là, hoàn thiện thể chế, chính sách đồng bộ gắn kết chuyển đổi số với phát triển xanh. Trước tiên, cần thể chế hóa và thực thi hiệu quả các chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế xanh và chuyển đổi số thông qua rà soát, tích hợp và đồng bộ hóa “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050” (ban hành theo Quyết định 1658/QĐ-TTg) và “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” (ban hành theo Quyết định 749/QĐ-TTg). Việc tích hợp này phải xác định rõ mục tiêu, lộ trình, các ngành, lĩnh vực ưu tiên, đồng thời gắn trách nhiệm cụ thể cho từng bộ, ngành, địa phương theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ. Hệ thống pháp luật cần được tiếp tục hoàn thiện, đặc biệt là các chính sách về kinh tế tuần hoàn, dữ liệu mở, đầu tư cho đổi mới sáng tạo, khuyến khích doanh nghiệp số hóa sản xuất và dịch vụ xanh, phù hợp với quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
Hai là, đầu tư phát triển hạ tầng số và nền tảng dữ liệu phục vụ quản lý, giám sát và đổi mới sáng tạo xanh. Thực hiện mục tiêu xây dựng Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, Chính phủ cần ưu tiên nguồn lực đầu tư công và huy động các nguồn lực xã hội để phát triển hạ tầng số quốc gia, đặc biệt là mạng 5G, hạ tầng kết nối IoT, các trung tâm dữ liệu lớn đạt chuẩn quốc tế và hệ thống cảm biến giám sát môi trường. Việc này phải bám sát Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Các địa phương cần triển khai đồng bộ các nền tảng quản lý thông minh cho các lĩnh vực trọng yếu như đô thị, giao thông, năng lượng, cấp thoát nước, và xử lý chất thải. Phát triển hệ sinh thái dữ liệu mở, bảo đảm an toàn, an ninh mạng và kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp sẽ là nền tảng cốt lõi để hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia về tài nguyên, môi trường, phục vụ công tác quản trị hiện đại, ra quyết sách dựa trên dữ liệu và thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh.
Ba là, thúc đẩy chuyển đổi số trong các lĩnh vực sản xuất, nông nghiệp, dịch vụ và quản trị môi trường. Cần đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó tập trung vào ứng dụng AI, IoT, blockchain và dữ liệu lớn để xây dựng nhà máy thông minh, tối ưu hóa quy trình sản xuất, và quản lý chuỗi cung ứng xanh. Trong nông nghiệp, cần nhân rộng các mô hình nông nghiệp số, nông nghiệp chính xác, áp dụng công nghệ để quản lý tưới tiêu, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, giảm phát thải khí nhà kính, nâng cao hiệu quả sử dụng đất và tài nguyên. Đặc biệt, ứng dụng công nghệ số vào quản lý môi trường là nhiệm vụ cấp bách nhằm thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 đạt mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực số và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp xanh. Để thực hiện một trong ba đột phá chiến lược mà Đại hội XIII đã đề ra, cần tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Các chương trình đào tạo, giáo dục nghề nghiệp cần được đổi mới theo hướng tích hợp kiến thức và kỹ năng về công nghệ số, kinh tế xanh và phát triển bền vững. Tăng cường hợp tác công-tư, gắn kết chặt chẽ giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu ứng dụng.
Năm là, huy động nguồn lực tài chính, khuyến khích phát triển tài chính số và các sản phẩm tài chính xanh. Cần đa dạng hóa và huy động hiệu quả các nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước, khu vực tư nhân, vốn FDI và các tổ chức quốc tế cho các dự án chuyển đổi số gắn với phát triển kinh tế xanh. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng đẩy mạnh triển khai chương trình tín dụng xanh. Đồng thời, Bộ Tài chính cần hoàn thiện khung pháp lý để phát triển mạnh mẽ thị trường vốn xanh, đặc biệt là các sản phẩm tài chính số như trái phiếu xanh, tín dụng xanh, quỹ đầu tư mạo hiểm cho các dự án xanh, nhằm tạo động lực tài chính cho doanh nghiệp và cộng đồng tham gia quá trình chuyển đổi.
Sáu là, đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng về kinh tế xanh và chuyển đổi số. Cuối cùng, cần phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục. Cần xây dựng các chiến dịch truyền thông sâu rộng trên đa phương tiện để tạo sự đồng thuận xã hội, nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi của người dân, doanh nghiệp về vai trò, lợi ích của kinh tế xanh và chuyển đổi số. Việc này nhằm mục tiêu biến nhận thức thành hành động tự giác, khuyến khích lối sống bền vững và tiêu dùng có trách nhiệm, tạo nền tảng xã hội vững chắc để quá trình chuyển đổi kép này diễn ra sâu rộng, hiệu quả trên phạm vi toàn quốc./.
Tài liệu tham khảo
1. Ciano, M.P. et al. (2025). Industry 4.0 technologies in support of circular Economy: A 10R-based integration framework, Computers & Industrial Engineering, 201(2025), 110867.
2. Dương Vũ Hằng Nga (2025). Chính sách kinh tế xanh: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam, truy cập từ https://kinhtevadubao.vn/chinh-sach-kinh-te-xanh-kinh-nghiem-quoc-te-va-ham-y-chinh-sach-cho-viet-nam-31034.html
3. Ngô Thị Ngọc Anh. Kinh nghiệm phát triển kinh tế xanh ở một số nước và bài học cho Việt Nam, truy cập từ https://tapchitaichinh.vn/kinh-nghiem-phat-trien-kinh-te-xanh-o-mot-so-nuoc-va-bai-hoc-cho-viet-nam.html
4. Nguyễn Đức Trọng (2023). Kinh nghiệm thúc đẩy phát triển kinh tế xanh trên thế giới và bài học tham khảo cho Việt Nam, truy cập: https://tapchicongthuong.vn/kinh-nghiem-thuc-day-phat-trien-kinh-te-xanh-tren-the-gioi-va-bai-hoc-tham-khao-cho-viet-nam-109080.htm
5. Nguyễn Thị Thu Hà (2024). Bài học về phát triển kinh tế xanh ở một số quốc gia, Tạp chí Tài chính, Số tháng 3 năm 2024, Tr.124-126.
6. Nobre, G.C. & Tavares, E. (2023). The role of Industry 4.0 technologies in the transition to a circular economy: a practice perspective, Sustainability: Science, Practice and Policy, 19:1, 2289260.
7. UNEP (2011). Towards a Green Economy: Pathways to Sustainable Development and Poverty Eradication.
8. Wang, C., Liu, T., Du, D., Zhu, Y., Zheng, Z., & Li, H. (2024). Impact of the Digital Economy on the Green Economy: Evidence from China, Sustainability, 16(21), 9217.
9. Xu, G., Peng, S., Li, C., & Chen, X. (2023). Synergistic Evolution of China’s Green Economy and Digital Economy Based on LSTM-GM and Grey Absolute Correlation, Sustainability, 15(19), 14156.
10. Yin, X., Zhang, J., & Zheng, X. (2024). How Does Digital Economy Influence Green Mobility for Sustainable Development? Moderating Effect of Policy Instruments, Sustainability, 16(21), 9316.
Ngày nhận bài: 05/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 15/6/2025; Ngày duyệt đăng: 20/6/2025 |
Bình luận