Vị trí, vai trò của cán bộ Hội phụ nữ cơ sở và những vấn đề đặt ra trong tình hình mới
Đỗ Thị Thơm
Ban Chính sách - Luật pháp, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Tóm tắt
Trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số và tinh giản biên chế, vai trò của cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ cơ sở ngày càng được mở rộng và chuyên nghiệp hóa. Tuy nhiên, đội ngũ này cũng đang đối diện với nhiều thách thức như: kiêm nhiệm nhiều vai trò, thiếu điều kiện làm việc, hạn chế về kỹ năng công nghệ và mức phụ cấp thấp. Bài viết tập trung phân tích vai trò ngày càng đa dạng của cán bộ Hội phụ nữ cơ sở trong bối cảnh mới, chỉ ra các tác động từ môi trường chính sách và xã hội, đồng thời đề xuất những yêu cầu cấp thiết để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, hướng tới phát triển tổ chức Hội vững mạnh đến năm 2030.
Từ khóa: Cán bộ Hội Phụ nữ cơ sở, bình đẳng giới, chuyển đổi số
Summary
In the context of deepening international integration, digital transformation, and public sector streamlining, the role of grassroots Women's Union officers in Vietnam has been significantly expanded and professionalized. However, they face numerous challenges such as multiple-role assignments, inadequate working conditions, limited digital skills, and insufficient allowances. This article analyzes the evolving role of grassroots Women's Union officers in the new context, examines the impact of recent political and social reforms, and outlines essential requirements for enhancing the quality of the grassroots cadre toward building a stronger Women’s Union by 2030.
Keywords: Grassroots Women’s Union officer, gender equality, digital transformation
GIỚI THIỆU
Cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) cơ sở giữ vai trò then chốt trong việc triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với hội viên phụ nữ tại địa phương. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, chuyển đổi số toàn diện và yêu cầu tinh giản bộ máy hành chính theo Nghị quyết số 18-NQ/TW, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ Hội cơ sở không chỉ dừng lại ở việc vận động phong trào, mà còn bao gồm cả giám sát, phản biện, kết nối cộng đồng và hỗ trợ phát triển kinh tế hộ gia đình. Tuy nhiên, chính những áp lực mới này đang đặt ra yêu cầu cấp thiết về nâng cao năng lực, phẩm chất và môi trường làm việc cho đội ngũ cán bộ Hội. Việc nhận diện đúng vai trò, khó khăn và đề xuất giải pháp phù hợp là cơ sở để phát triển tổ chức Hội vững mạnh, góp phần thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới đến năm 2030.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁN BỘ HỘI LHPN CẤP CƠ SỞ
Khái niệm cán bộ Hội cơ sở: Theo Điều lệ Hội LHPN Việt Nam, “cán bộ Hội cơ sở” hay “Cán bộ Hội LHPN cơ sở” là người được bầu giữ các chức danh tại đại hội đại biểu phụ nữ các xã, phường, thị trấn và hội nghị các chi hội, làm việc theo nhiệm kỳ. Cán bộ Hội cơ sở có thể được chỉ định hoặc chọn cử (đối với cán bộ chi hội) trong một số trường hợp đặc biệt theo quy định của Điều lệ Hội LHPN Việt Nam.
Theo Điều lệ Hội LHPN Việt Nam, cán bộ Hội cơ sở bao gồm các vị trí chức danh: Ủy viên Ban chấp hành Hội phụ nữ cơ sở, Ủy viên Ban thường vụ Hội phụ nữ cơ sở; Chủ tịch Hội phụ nữ cơ sở, Phó Chủ tịch Hội phụ nữ cơ sở và Cán bộ chi/tổ phụ nữ.
Đội ngũ cán bộ Hội cơ sở: bao gồm tổng thể những cán bộ Hội cơ sở được tổ chức chặt chẽ theo qui định của Điều lệ Hội LHPN Việt Nam, cùng chung mục tiêu phấn đấu vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới; thực hiện nhiệm vụ theo chương trình, kế hoạch xác định; hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Cấp ủy địa phương và Hội LHPN cấp huyện.
Chức năng, nhiệm vụ của Hội LHPN cấp cơ sở
Hội LHPN cấp cơ sở là cấp cuối cùng trong hệ thống tổ chức 4 cấp của Hội LHPN Việt Nam; là nền tảng của tổ chức Hội, được thành lập ở các xã, phường, thị trấn và tương đương (không bao gồm các cơ sở Hội trong các lực lượng vũ trang); Là cầu nối giữa tổ chức Hội với phụ nữ và hội viên, giữa tổ chức Hội với Đảng, chính quyền địa phương; Là nơi tổ chức và vận động hội viên, phụ nữ thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các hoạt động của Hội; Là chỗ dựa vững chắc của phụ nữ, hội viên thông qua việc tập hợp, giải quyết hoặc phản ánh ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp phụ nữ.
Là bộ phận cấu thành hệ thống tổ chức Hội, Hội LHPN cấp cơ sở cùng với Hội cấp trên đều thực hiện 5 nhiệm vụ của tổ chức Hội được quy định tại Điều 2, Điều lệ Hội; tuy nhiên, mức độ, phạm vi và trách nhiệm tổ chức thực hiện có sự khác nhau giữa các cấp Hội. 5 nhiệm vụ của tổ chức Hội là: (1) Tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức, lối sống; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. (2) Vận động các tầng lớp phụ nữ chủ động, tích cực thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; vận động, hỗ trợ phụ nữ nâng cao năng lực, trình độ, xây dựng gia đình hạnh phúc, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. (3) Tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ. (4) Xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh. (5) Đoàn kết, hợp tác với phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân tiến bộ trong khu vực và thế giới vì bình đẳng, phát triển và hòa bình.
Cơ cấu tổ chức và bộ máy lãnh đạo của Hội LHPN cấp cơ sở
Theo Hướng dẫn thực hiện Điều lệ Hội, Hội LHPN cấp cơ sở được thành lập theo: đơn vị hành chính; trong các cơ quan, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân; trong các chợ, siêu thị, trung tâm thương mại…; trong các trường (dân lập) và một số cơ sở tôn giáo (chùa, nhà thờ). Các loại hình tổ chức Hội cơ sở khác do Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam hướng dẫn.
Mỗi đơn vị tổ chức Hội phụ nữ cơ sở bao gồm các chi hội phụ nữ. Chi hội phụ nữ được thành lập theo thôn/xóm/bản/ấp. Những chi hội có số lượng 50 hội viên trở lên có thể thành lập các tổ phụ nữ. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hội LHPN cơ sở là Đại hội đại biểu phụ nữ cơ sở, được tổ chức 5 năm/lần. Trường hợp đặc biệt có thể tổ chức sớm hoặc muộn hơn, nhưng không quá 1 năm. Đại hội bầu ra Ban chấp hành Hội LHPN cơ sở để lãnh đạo việc thực hiện Nghị quyết của Đại hội và điều hành công việc giữa 2 kỳ đại hội. Số lượng ủy viên Ban chấp hành hội LHPN cơ sở do Đại hội đại biểu phụ nữ cơ sở của nhiệm kỳ quyết định.
Vai trò của cán bộ Hội phụ nữ cơ sở trong bối cảnh đổi mới và hội nhập
Trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng và chuyển đổi số toàn diện, vai trò của đội ngũ cán bộ Hội LHPN cấp cơ sở ngày càng được mở rộng, nâng cao cả về trách nhiệm lẫn năng lực thực hiện. Họ không chỉ là những người làm công tác phong trào thuần túy, mà còn là “cầu nối” giữa Đảng, chính quyền với phụ nữ và cộng đồng tại cơ sở, nơi trực tiếp diễn ra các hoạt động của tổ chức Hội.
Thứ nhất, vai trò vận động quần chúng và tổ chức phong trào phụ nữ là sứ mệnh truyền thống và cũng là điểm mạnh nổi bật của cán bộ Hội cơ sở. Các cán bộ này có trách nhiệm truyền tải chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến hội viên một cách gần gũi, dễ hiểu; đồng thời, triển khai hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước như “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, hay “Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới”. Đặc biệt, việc gắn kết phong trào với các mục tiêu phát triển bền vững và bình đẳng giới đã giúp nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Thứ hai, cán bộ Hội cơ sở ngày càng đảm nhiệm nhiệm vụ tham gia giám sát, phản biện xã hội và xây dựng chính sách, thể hiện rõ hơn vai trò đại diện tiếng nói, nhu cầu và quyền lợi của phụ nữ tại cơ sở. Với vai trò thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cán bộ Hội tham gia góp ý dự thảo luật, giám sát việc thực hiện các chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em, phản ánh kịp thời các vấn đề bất bình đẳng giới, bạo lực gia đình hay phân biệt đối xử để có giải pháp can thiệp, hỗ trợ.
Thứ ba, họ đóng vai trò là người hướng dẫn, kết nối và hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp, phát triển kinh tế hộ gia đình, thông qua các hoạt động phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội, Quỹ hỗ trợ phụ nữ, các mô hình tổ hợp tác, tổ liên kết sản xuất... Bằng sự am hiểu tình hình địa phương, cán bộ Hội đã giúp phụ nữ tiếp cận vốn, khoa học - kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm, góp phần xóa đói giảm nghèo và thúc đẩy kinh tế hộ gia đình theo hướng bền vững.
Thứ tư, trong xu hướng chuyển đổi số mạnh mẽ, cán bộ Hội cơ sở còn phải ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hội viên, truyền thông qua mạng xã hội và điều hành công việc. Việc nắm bắt và sử dụng thành thạo các nền tảng số như: Facebook, Zalo, các phần mềm quản lý hội viên, hệ thống báo cáo trực tuyến, đã trở thành yêu cầu thiết yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và mở rộng phạm vi tuyên truyền trong thời đại số hóa.
Cuối cùng, cán bộ Hội cơ sở còn giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng, giữ gìn và phát triển mạng lưới đoàn kết phụ nữ, trở thành điểm tựa tinh thần, nơi hội viên chia sẻ, kết nối và nhận được sự hỗ trợ kịp thời. Trong các tình huống khẩn cấp như: thiên tai, dịch bệnh hay biến động xã hội, vai trò của cán bộ Hội càng được thể hiện rõ qua những hoạt động thiện nguyện, chăm lo đời sống vật chất - tinh thần cho phụ nữ, trẻ em và các nhóm yếu thế.
Tóm lại, vai trò của cán bộ Hội phụ nữ cơ sở không ngừng được mở rộng, đa dạng hóa và chuyên nghiệp hóa, thể hiện ở cả chiều sâu chuyên môn, chiều rộng lĩnh vực hoạt động và khả năng thích ứng với bối cảnh mới. Điều này đặt ra yêu cầu nâng cao năng lực toàn diện cho đội ngũ này nhằm phát huy tối đa vai trò nòng cốt của họ trong sự nghiệp phát triển phụ nữ, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và hiện thực hóa mục tiêu bình đẳng giới đến năm 2030.
BỐI CẢNH TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HỘI PHỤ NỮ CƠ SỞ
Trong giai đoạn hiện nay, đội ngũ cán bộ Hội LHPN cấp cơ sở đang chịu nhiều tác động mạnh mẽ từ các chính sách cải cách tổ chức và xu thế phát triển mới của đất nước.
Trước hết, chủ trương tinh giản biên chế theo Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII, năm 2017) đã thúc đẩy việc sắp xếp lại bộ máy hành chính và hệ thống chính trị ở cơ sở theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Điều này dẫn đến việc thu hẹp số lượng cán bộ Hội, sáp nhập các chức danh, khiến nhiều cán bộ, đặc biệt là chủ tịch, phó chủ tịch và chi hội trưởng, phải kiêm nhiệm nhiều vai trò, gánh vác khối lượng công việc lớn trong khi thời gian và nguồn lực không đổi. Đây là áp lực không nhỏ đối với cán bộ không chuyên trách, vốn đã hạn chế về điều kiện làm việc và thu nhập.
Bên cạnh đó, xu thế chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trong toàn hệ thống chính trị - xã hội đòi hỏi cán bộ Hội cơ sở phải nhanh chóng thích ứng với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hội viên, truyền thông, tổ chức hội họp và triển khai phong trào. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhiều cán bộ Hội, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi, còn thiếu kỹ năng công nghệ, chưa được đào tạo bài bản, khiến chuyển đổi số còn gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác.
Đáng chú ý, việc thực hiện thí điểm mô hình sáp nhập các tổ chức chính trị - xã hội vào hệ thống Mặt trận Tổ quốc tại một số địa phương bước đầu đã bộc lộ những bất cập. Việc này không chỉ làm mờ nhạt vai trò đặc thù về giới của Hội phụ nữ, mà còn gia tăng áp lực phối hợp liên ngành, khiến cán bộ Hội phải chia sẻ thời gian và trách nhiệm với các tổ chức khác, dễ dẫn đến xung đột về mục tiêu hoạt động và giảm sút tính chuyên sâu trong triển khai các nhiệm vụ liên quan đến phụ nữ.
Đặc biệt, trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ và triển khai Chiến lược phát triển tổ chức Hội LHPN Việt Nam đến năm 2030, yêu cầu đặt ra đối với cán bộ Hội cơ sở càng trở nên cấp thiết. Không chỉ cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với đường lối của Đảng, cán bộ Hội còn phải am hiểu sâu sắc về giới, pháp luật, các chính sách liên quan đến phụ nữ và trẻ em gái, những đối tượng chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội. Đồng thời, các kỹ năng mềm như: thuyết trình, vận động quần chúng, kết nối cộng đồng, giải quyết xung đột, tổ chức phong trào..., cũng trở thành những yêu cầu không thể thiếu. Trong thời đại số, thành thạo công nghệ thông tin, ứng dụng mạng xã hội và sử dụng hiệu quả các công cụ số không chỉ là lợi thế mà là yêu cầu bắt buộc để cán bộ Hội duy trì được tính hiệu quả, sáng tạo và kết nối trong công tác.
Trên hết, yếu tố nền tảng tạo nên sức mạnh của đội ngũ cán bộ Hội chính là tinh thần trách nhiệm, sự tâm huyết với phong trào và lòng kiên trì gắn bó lâu dài với cộng đồng phụ nữ. Đó là những giá trị cốt lõi cần được gìn giữ và tiếp tục phát huy trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ Hội cơ sở đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÁN BỘ HỘI PHỤ NỮ CƠ SỞ TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong giai đoạn mới, đội ngũ cán bộ Hội cơ sở cần hội tụ đủ các phẩm chất, năng lực và tư duy phù hợp với thời kỳ mới.
Một là, vững vàng về bản lĩnh chính trị, trung thành tuyệt đối với Đảng và kiên định với mục tiêu vì sự tiến bộ và bình đẳng giới. Trong bối cảnh sáp nhập tổ chức chính trị - xã hội và thực hiện mô hình “một tổ chức, nhiều nhiệm vụ”, cán bộ Hội cần giữ vững vai trò là tiếng nói đại diện cho phụ nữ tại cộng đồng, đồng thời thực hiện tốt nhiệm vụ trong khối Mặt trận mà không bị “hòa tan” vai trò giới đặc thù của tổ chức Hội.
Hai là, cán bộ Hội cần am hiểu sâu sắc về giới, pháp luật, chính sách liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới, bao gồm: Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; Luật Hôn nhân và Gia đình, cũng như các chương trình, đề án liên quan đến phụ nữ, trẻ em. Đây là nền tảng để hỗ trợ, tư vấn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên tại cơ sở.
Ba là, yêu cầu về kỹ năng mềm ngày càng trở nên cấp thiết. Cán bộ Hội cơ sở cần rèn luyện kỹ năng thuyết trình, kết nối cộng đồng, xây dựng mạng lưới hỗ trợ phụ nữ, quản lý xung đột, tổ chức sự kiện, vận động nguồn lực. Đặc biệt, trong giai đoạn hậu đại dịch và chuyển đổi mô hình tổ chức, việc khơi dậy tinh thần đoàn kết và tính chủ động trong cộng đồng phụ nữ là yếu tố then chốt.
Bốn là, năng lực công nghệ thông tin và chuyển đổi số là yêu cầu bắt buộc. Cán bộ Hội cần sử dụng thành thạo máy tính, mạng xã hội, các phần mềm quản lý hội viên, hệ thống họp trực tuyến và truyền thông số để triển khai nhiệm vụ hiệu quả trong điều kiện làm việc linh hoạt, không gian số hóa. Đây cũng là điều kiện để cán bộ thích ứng với xu hướng quản trị hiện đại và nâng cao hiệu quả truyền thông Hội trong kỷ nguyên số.
Năm là, cán bộ Hội phải có tinh thần trách nhiệm cao, lòng nhiệt huyết và sự gắn bó lâu dài với phong trào phụ nữ. Trong điều kiện kiêm nhiệm, phụ cấp thấp và áp lực từ các nhiệm vụ đa ngành, chỉ những cán bộ thật sự yêu nghề, tâm huyết với cộng đồng phụ nữ mới có thể duy trì động lực làm việc bền vững. Điều này cần được nuôi dưỡng không chỉ từ nội lực, mà còn từ chính sách hỗ trợ, sự công nhận và khích lệ kịp thời từ tổ chức và chính quyền địa phương.
Tóm lại, để đội ngũ cán bộ Hội cơ sở thực sự là “cầu nối” giữa Đảng với phụ nữ, giữa chính sách với cuộc sống, cần đầu tư đúng mức vào phát triển phẩm chất, kỹ năng và tạo môi trường làm việc thuận lợi. Đây là điều kiện tiên quyết để tổ chức Hội vững mạnh, góp phần thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và sự phát triển bền vững của đất nước./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2023). Nghị định số 33/2023/NĐ-CP, ngày 10/6/2023 quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, tổ dân phố.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017). Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
3. Hội LHPN Việt Nam (2022). Điều lệ Hội LHPN Việt Nam (khóa XIII).
4. Lê Thị Hường (2021). Động lực làm việc của công chức trong bối cảnh đổi mới cơ chế quản lý nhà nước, Tạp chí Lý luận chính trị, 10, 15-20.
5. Mai Thị Hạnh (2020). Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Hội phụ nữ cơ sở, Tạp chí Phụ nữ Mới, 7, 42-48.
6. Nguyễn Đình Tấn (2018). Quản lý nguồn nhân lực trong khu vực công, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân.
7. Nguyễn Thị Kim Dung (2019). Tác động của môi trường làm việc đến động lực công tác của cán bộ nữ cấp cơ sở, Tạp chí Phát triển nhân lực, 6, 56-63.
8. Thủ tướng Chính phủ (2023). Quyết định số 1849/QĐ-TTg, ngày 28/11/2023 phê duyệt Đề án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp.
9. Thủ tướng Chính phủ (2025). Quyết định số 759/QĐ-TTg, ngày 14/4/2025 phê duyệt Đề án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp.
10. Trần Quốc Toản (2021). Chuyển đổi số và tác động đến tổ chức chính trị - xã hội ở cấp cơ sở, Tạp chí Lý luận chính trị, 2, 12-18.
11. Trần Minh Thu.(2023). Một số vấn đề đặt ra khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp và bỏ cán bộ không chuyên trách, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, 12, 33-38.
12. Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước (2022). Đánh giá tác động của chính sách tinh giản biên chế và không bố trí cán bộ không chuyên trách tại cơ sở.
Ngày nhận bài: 06/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 22/6/2025; Ngày duyệt đăng: 24/6/2025 |
Bình luận