Việt Nam: Cần cải thiện chất lượng giáo dục để tiếp tục tăng trưởng
Việt Nam đang tăng trưởng cao nhưng đối mặt với rủi ro gia tăng
Theo bà Carolyn Turk, điều Việt Nam cần là lực lượng lao động có những kỹ năng của thế kỷ 21 để tiếp tục tăng trưởng |
Theo bà Carolyn Turk, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 6,4% trong nửa đầu năm 2022 và dự kiến tăng trưởng vẫn khả quan từ nay đến cuối năm cũng như trong năm 2023, nhưng Việt Nam phải đối mặt với rủi ro gia tăng, bao gồm lạm phát gia tăng, nguồn cung của các chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) tiếp tục bị gián đoạn, tình trạng thiếu hụt lao động theo báo cáo, và các đợt bùng phát mới của dịch COVID, có thể cản trở phục hồi cả trong nước và trên thế giới. Nếu các nền kinh tế lớn và các thị trường xuất khẩu chủ lực như Hoa Kỳ, khu vực đồng Euro và Trung Quốc suy giảm mạnh hơn so với những gì đang được dự kiến, khiến xuất khẩu của Việt Nam có thể tiếp tục bị ảnh hưởng.
Việt Nam là nền kinh tế mới nổi có khát vọng trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2035, nhưng theo bà Carolyn Turk, để thực thi được thì cải thiện chất lượng giáo dục là hết sức quan trọng. Điều Việt Nam cần là lực lượng lao động có những kỹ năng của thế kỷ 21 để tiếp tục tăng trưởng.
Bà Carolyn Turk đánh giá cao những thành tựu của Việt Nam về cung cấp giáo dục phổ thông như số năm học bình quân của Việt Nam là 10,2 năm, chỉ đứng thứ hai sau Sing-ga-po trong số các nước thuộc Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); chỉ số vốn con người là 0,69 so với mức tối đa bằng 1, thuộc dạng cao nhất trong số các nền kinh tế thu nhập trung bình thấp… Tuy nhiên, về giáo dục sau phổ thông, bao gồm giáo dục đại học và dạy nghề, Giám đốc WB cho rằng, số liệu chưa được như đáng có.
Mặc dù hầu hết việc làm ở Việt Nam tiếp vẫn là những công việc thủ công đòi hỏi kỹ năng hoặc không đòi hỏi kỹ năng, nhưng các doanh nghiệp cho biết họ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm lao động có các kỹ năng lãnh đạo, quản lý hoặc chuyên môn kỹ thuật. Theo khảo sát về doanh nghiệp và kỹ năng của Ngân hàng Thế giới (2019), 73% doanh nghiệp Việt Nam trong mẫu cho biết họ gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động có các kỹ năng lãnh đạo và quản lý, 54% gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động có kỹ năng cảm xúc - xã hội, và 68% gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động có kỹ năng chuyên môn kỹ thuật theo vị trí việc làm cụ thể.
“Vấn đề trên vừa là vấn đề về chất lượng - sự phù hợp về kỹ năng và khả năng sử dụng sinh viên tốt nghiệp hiện nay - vừa là vấn đề về số lượng - số lượng sinh viên tốt nghiệp”, bà nói. Về chất lượng, Việt Nam hiện có thứ hạng thứ ba từ dưới lên trong số 140 quốc gia có tên trong Chỉ số Năng lực Cạnh tranh năm 2018 liên quan đến mức độ phù hợp về kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp đại học. Còn về số lượng, chỉ có 10,2% dân số ở độ tuổi từ 25 trở lên có bằng cử nhân hoặc tương đương vào năm 2019. Tỷ lệ nhập học gộp ở cấp học sau phổ thông của Việt Nam là 28,6%, thấp hơn so với các quốc gia so sánh trong khu vực, và thấp hơn mức bình quân là 55,1% ở các quốc gia thu nhập trung bình cao.
Ngay lúc này, Việt Nam có khoảng 2 triệu sinh viên được tuyển sinh vào các cơ sở giáo dục sau phổ thông. Để đạt tỷ lệ tuyển sinh của các quốc gia thu nhập trung bình cao trong dài hạn, chỉ tiêu tuyển sinh phải được nâng lên đến khoảng 3,8 triệu sinh viên, gần gấp đôi so với con số năm 2019.
Giám đốc WB khuyến nghị, để có được lực lượng lao động chất lượng cao, các cấp có thẩm quyền cần tiến hành cải cách cơ cấu và chính sách trong lĩnh vực giáo dục sau phổ thông.
Nguồn: Báo cáo của WB |
Thực trạng giáo dục và gợi mở giải pháp cho Việt Nam
Tại cuộc họp báo, WB cho rằng, Việt Nam hiện có đại diện trong 1.000 trường đại học hàng đầu nhưng vẫn nằm ở đáy trong danh sách so sánh |
Theo đánh giá của các chuyên gia WB, tại Việt Nam có sự chênh lệch đáng kể về khả năng tiếp cận giữa học sinh/sinh viên ở gia đình trong nhóm thu nhập thấp so với nhóm khá giả hơn trong những năm qua. Thanh thiếu niên các nhóm dân tộc thiểu số có tỷ lệ tiếp cận giáo dục sau phổ thông thấp hơn đáng kể so với các nhóm dân tộc đa số.
Lý giải về việc hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam chưa đạt kết quả mong muốn, các chuyên gia WB cho rằng, nhiều hộ gia đình và thí sinh có triển vọng phải đối mặt với chi phí cơ hội cao khi muốn theo học sau phổ thông. Sinh viên gặp rào cản khi muốn theo học đại học vì chi phí tài chính gia tăng và phần chi phí do gia đình phải gánh chịu ngày càng lớn. Trong khi đó, hệ thống giáo dục sau phổ thông chưa có khả năng đáp ứng nhu cầu về kỹ năng của thị trường lao động.
Trong tương quan so sánh với một số nước khác, Việt Nam xếp thứ ba từ dưới lên trong 140 quốc gia có tên trong Chỉ số năng lực cạnh tranh năm 2018 liên quan đến sự phù hợp về kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp đại học, trên quan điểm của các đơn vị sử dụng lao động tại từng nước. Việt Nam hiện có đại diện trong 1.000 trường đại học hàng đầu nhưng vẫn nằm ở đáy trong danh sách so sánh, đứng sát sau Phi-líp-pin và In-đô-nê-xia, đứng sau cách xa so với các các quốc gia khác trong khu vực.
|
Tuy có một số cải thiện về năng lực đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ, nhưng sự thiếu vốn của Chính phủ dành cho nghiên cứu và phát triển tại các trường đại học ảnh hưởng đến tiến triển có thể đạt được. Hiện chưa có một cơ quan tập trung thống nhất phụ trách quản lý nhà nước toàn bộ hệ thống giáo dục đại học và nghiên cứu. Khung pháp quy còn phức tạp, manh mún và thiếu đồng bộ… Cùng với đó, WB cũng chỉ ra rằng, Việt Nam chưa có sự gắn kết giữa trường đại học và các cơ sở nghiên cứu. Bộ Giáo dục và Đào tạo còn yếu về năng lực xác định tầm nhìn theo lĩnh vực cũng như triển khai thực hiện. Theo đó, đầu tư của khu vực tư nhân cho giáo dục sau phổ thông tiếp tục cần được tạo điều kiện và chất lượng giáo dục cần được cải thiện căn bản mới có thể thay đổi được vị thế này.
WB kiến nghị cần đa dạng về cơ sở giáo dục, đa dạng về phương thức đào tạo, tăng cường nguồn tuyển sinh từ bậc giáo dục trung học và mở rộng cung cấp hỗ trợ tài chính cho sinh viên. Cùng với đó, Việt Nam cần cải thiện chất lượng và sự phù hợp của chương trình đào tạo với nhu cầu thực tiễn và khát vọng phát triển dài hạn. Cần đổi mới các phương thức dạy và học, hình thành liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp. Cần cải thiện về quản trị lĩnh vực giáo dục đại học, xác định tầm nhìn cho tương lai và cần đẩy mạnh đảm bảo tài chính bền vững…/.
Bình luận