Vũ Bá Phú

Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương

Email: phuvba@moit.gov.vn

Tóm tắt

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, xúc tiến thương mại là nền tảng quan trọng giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường. Tuy nhiên, công tác xúc tiến thương mại của Việt Nam còn hạn chế do phân tán nguồn lực, thiếu cơ chế phối hợp và chưa có tiêu chí chuẩn hóa để đánh giá năng lực tổ chức. Nghiên cứu này đề xuất xây dựng Bộ chỉ số đánh giá năng lực xúc tiến xuất khẩu gồm các trụ cột, tiêu chí và phương pháp đo lường cụ thể, nhằm tạo khung tham chiếu toàn diện, khoa học và khách quan, giúp cơ quan quản lý hoạch định chính sách và hỗ trợ các tổ chức xúc tiến thương mại tự đánh giá, cải thiện năng lực. Kết quả thử nghiệm cho thấy, Bộ chỉ số phản ánh rõ những điểm yếu phổ biến, nhất là ở chuyển đổi số, giám sát và phát triển bền vững, đồng thời mở ra cơ hội hình thành cơ chế quản trị minh bạch và định lượng hơn cho hoạt động xúc tiến thương mại.

Từ khóa: Bộ chỉ số TPCI, chuyển đổi số, năng lực xuất khẩu, phát triển bền vững, xúc tiến thương mại

Summary

In the context of deep international integration, trade promotion constitutes a crucial foundation for enterprises to enhance competitiveness and expand markets. However, Viet Nam’s trade promotion activities remain constrained due to fragmented resources, a lack of coordination mechanisms, and the absence of standardized criteria for assessing organizational capacity. This study proposes the development of a Trade Promotion Capacity Index (TPCI), comprising pillars, criteria, and specific measurement methods, to establish a comprehensive, scientific, and objective reference framework. Such a framework will assist policymakers in designing policies and support trade promotion organizations in self-assessment and capacity enhancement. The pilot results indicate that the Index clearly reflects common weaknesses, particularly in digital transformation, monitoring, and sustainable development, while also opening opportunities for establishing a more transparent and quantifiable governance mechanism for trade promotion activities.

Keywords: Trade Promotion Capacity Index (TPCI), digital transformation, export capacity, sustainable development, trade promotion

GIỚI THIỆU

Tại Việt Nam, trong những năm qua, hoạt động xúc tiến thương mại (XTTM) từ Trung ương đến địa phương đã có nhiều bước phát triển; các hoạt động XTTM được triển khai liên tục, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng xuất khẩu nói riêng, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội nói chung. Tuy nhiên, công tác XTTM vẫn tồn tại một số hạn chế như: hoạt động còn dàn trải giữa các bộ, ngành, địa phương; có nơi chồng chéo về nội dung, thời điểm, địa bàn thực hiện dễ gây lãng phí nguồn lực. Nguồn nhân lực tại các cơ quan, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ về XTTM còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, ảnh hưởng đến chất lượng triển khai các hoạt động. Trong một số trường hợp, việc tổ chức thực hiện các hoạt động XTTM chưa đạt được mục tiêu đề ra. Mặt khác, một số đơn vị chưa có khả năng triển khai các hoạt động XTTM như: nghiên cứu đánh giá thị trường, thẩm định đối tác thương mại, tư vấn phát triển thị trường, cập nhật quy định mới của thị trường nhập khẩu, nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng, đặc biệt những tiêu chuẩn về sản xuất tuần hoàn, tăng trưởng bền vững…

Nguyên nhân cơ bản là thiếu cơ chế có tính ràng buộc thực hiện giữa cơ quan đầu mối quản lý nhà nước về thương mại và các đơn vị, tổ chức tham gia thực hiện hoạt động XTTM. Ngoài ra, hiện nay chưa có một hệ thống tiêu chí chuẩn để đánh giá năng lực của các cơ quan/tổ chức hỗ trợ XTTM ở Việt Nam. Do đó, năng lực, kinh nghiệm của các cơ quan/tổ chức XTTM thường được cào bằng khi đánh giá và phê duyệt cấp kinh phí triển khai các hoạt động XTTM. Bên cạnh đó, tình trạng bỏ qua khâu tự đánh giá hiệu quả, tự cải thiện năng lực hoặc tiến hành một cách hình thức, thiếu bài bản vẫn tồn tại khá phổ biến trong nội bộ các chủ thể thực hiện hoạt động XTTM.

Trước tình hình trên, một trong những giải pháp căn cơ là xây dựng các chỉ số và tổ chức đánh giá năng lực XTTM làm nền tảng cho cơ chế quản lý hoạt động XTTM một cách toàn diện; bổ sung nội dung đánh giá định lượng, làm kiểm chứng khoa học cho những đánh giá mang tính chất định tính; là công cụ hữu hiệu để thu thập, phân tích thông tin làm cơ sở đề xuất chính sách điều hành và triển khai chiến lược XTTM phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế từng thời kỳ.

TỔNG QUAN VỀ BỘ CHỈ SỐ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI

Các chủ thể chính trong hệ sinh thái xúc tiến thương mại

Các chủ thể chính trong hệ sinh thái xúc tiến thương mại gồm: cơ quan quản lý nhà nước (Bộ Công Thương - Cục XTTM), đóng vai trò kiến tạo, định hướng chiến lược và chính sách. Bên cạnh đó, Tổ chức XTTM (TPO) và tổ chức hỗ trợ thương mại, hiệp hội (BSO/TPO) là lực lượng triển khai và cầu nối trung tâm của toàn hệ thống. Doanh nghiệp là đối tượng trung tâm, vừa được hỗ trợ, vừa là đối tác đồng hành. Mạng lưới quốc tế (thương vụ, đối tác nước ngoài) là cánh tay nối dài, cung cấp thông tin và kết nối thị trường toàn cầu.

Bộ chỉ số đánh giá năng lực xúc tiến thương mại

Bộ chỉ số đánh giá năng lực XTTM (Trade Promotion Capacity Index - TPCI) là chỉ số đo lường và đánh giá năng lực của các tổ chức XTTM (TPO) và tổ chức hỗ trợ thương mại (BSO) hàng năm. Mục tiêu chính nhằm: (1) Giúp các đơn vị tự đánh giá năng lực của mình một cách có hệ thống; (2) Hỗ trợ có mục tiêu giúp cơ quan quản lý (Cục XTTM) xác định các điểm còn thiếu hụt để có biện pháp hỗ trợ, nâng cao năng lực phù hợp.

Về chủ thể đánh giá và đối tượng đánh giá, các cơ quan, tổ chức XTTM vừa là chủ thể đánh giá khi tiến hành đánh giá các đơn vị chuyên môn cấp dưới, vừa là đối tượng đánh giá khi tiến hành tự đánh giá định kỳ.

Quy trình xây dựng bộ chỉ số

Quá trình xây dựng bộ chỉ số được thực hiện từ tháng 10/2023-12/2024, qua các bước như Bảng 1.

Bảng 1: Quá trình xây dựng bộ chỉ số

Thời gian

Nội dung công việc chính

Tháng 10, 11 năm 2023

Xây dựng bộ chỉ số sơ bộ, phương pháp đo lường, tính toán và thử nghiệm trên quy mô nhỏ:

(i) Xác định các trụ cột chính và trọng số cho trụ cột. Lựa chọn, tham khảo từ bộ chỉ số của ITC và các bộ chỉ số khác như: PCI, chuyển đổi số để đề xuất chỉ số phụ/thành phần, và trọng số tương ứng.

(ii) Thử nghiệm với 7 BSO/TPO (Các Hiệp hội: Thương mại điện tử, Hữu cơ, hồ tiêu và gia vị; Các trung tâm XTTM các tỉnh/thành phố: Bắc Ninh, Đà Nẵng, Hà Nam, Đắk Lắk để đánh giá khả năng thu thập dữ liệu, chất lượng nguồn dữ liệu.

(iii) Phân tích và đối chứng bằng thông tin định tính để khẳng định mức độ tương thích (correlation) giữa các chỉ số thành phần, trọng số và hiện trạng kết quả.

(iv) Xây dựng, thử nghiệm, hoàn chỉnh công thức tính điểm tổng hợp.

Tháng 12 năm 2023

Khảo sát nhanh với các phòng ban của Cục XTTM, 8 TPO (Sơn La, Bắc Kạn, Hà Nội, Quảng Trị, Khánh Hòa, Gia Lai, Bình Thuận, An Giang) và 3 BSO/TPO (VICOFA, Hiệp hội phần mềm, Hiệp hội Dệt may) và thí điểm với 2 tổ chức/hiệp hội tích cực nhất (Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (VICOFA) và TPO của Khánh Hòa).

Tháng 6, 7, 8 năm 2024

Hoàn thiện bộ chỉ số, phiếu đánh giá TPCI và thử nghiệm vòng 2 với 26 đơn vị XTTM, tổ chức tập huấn cho các đơn vị áp dụng tự đánh giá

Tháng 11, 12 năm 2024

Hoàn chỉnh bộ chỉ số và phương pháp đo lường, thử nghiệm trên quy mô rộng và tổng kết, đánh giá để đề xuất bộ chỉ số chính thức cùng phương pháp điều chỉnh theo từng giai đoạn khi các yếu tố quan trọng có biến đổi.

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Mô hình, phương pháp xây dựng và cấu trúc bộ chỉ số

Mô hình và phương pháp xây dựng

Mô hình và phương pháp xây dựng bộ chỉ số được thực hiện theo cơ chế đánh giá kép (benchmarking quốc tế + tự đánh giá nội bộ). Trong đó, phương pháp của ITC Cubed để xây dựng các câu hỏi và chỉ tiêu; các văn bản pháp luật, chính sách XTTM của Việt Nam; chức năng, nhiệm vụ của các TPO và BSO trên cả nước.

Cấu trúc bộ chỉ số

Cấu trúc bộ chỉ số được thực hiện theo cách tiếp cận phân nhóm với 3 nhóm: cấp 1, cấp 2, cấp 3 như Bảng 2.

Bảng 2: Cấu trúc bộ chỉ số

Phân nhóm cấp 1

Phân nhóm cấp 2

Phân nhóm cấp 3

Nhóm 1: A- Sản phẩm, Dịch vụ và Khách hàng (2 chỉ số phụ)

- Sản phẩm và Dịch vụ (17 chỉ số phụ)

- Khách hàng (3 chỉ số phụ)

Nhóm 2: B - Nguồn lực và quy trình (4 chỉ số phụ)

- Nguồn nhân lực: Số lượng (1 chỉ số phụ)

- Nguồn nhân lực: Năng lực, Kỹ năng và Sự hiểu biết (4 chỉ số phụ)

- Nâng cao năng lực nguồn nhân lực (2 chỉ số phụ)

- Nguồn lực Tài chính (3 chỉ số phụ)

Nhóm 3: C - Chuyển đổi số và phát triển bền vững (2 chỉ số phụ)

- Chuyển đổi số (5 chỉ số phụ)

- Phát triển bền vững (3 chỉ số phụ)

- PTBV về lao động và xã hội (5 chỉ số phụ)

- PTBV về môi trường (4 chỉ số phụ)

- PTBV vềquản trị (3 chỉ số phụ)

Nhóm 4: D - Giám sát, đánh giá, quản lý dữ liệu và quản lý dựa trên kết quả (3 chỉ số phụ)

- Giám sát và đánh giá (2 chỉ số phụ)

- Quản lý dữ liệu (6 chỉ số phụ)

- Đánh giá dựa trên kết quả (2 chỉ số phụ)

Nhóm 5: E - Truyền thông, trách nhiệm giải trình, độ tin cậy (3 chỉ số phụ)

- Truyền thông (4 chỉ số phụ)

- Trách nhiệm giải trình (5 chỉ số phụ)

- Độ tin cậy (2 chỉ số phụ)

Nhóm 6: F - Quản lý, chiến lược và định hướng (4 chỉ số phụ)

- Lập kế hoạch (02 chỉ số phụ)

- Thực hiện kế hoạch (5 chỉ số phụ)

- Thanh tra, kiểm tra, giám sát (1 chỉ số phụ)

- Định hướng khách hàng (2 chỉ số phụ)

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Tính chỉ số TPCI

Các bước tính chỉ số TPCI gồm: (1) Xác định điểm cho từng câu hỏi: Điểm số được xác định từ 0 - 20, tùy thuộc tầm quan trọng của vấn đề/ nội dung của câu hỏi. Tổng điểm tính cho tất cả các tiêu chí là 600; (2) Nhập dữ liệu của các đơn vị XTTM; (3) Tính toán chỉ số của từng đơn vị XTTM; (4) Xây dựng biểu đồ phân tách các chỉ tiêu/ tiêu chí; (5) Xây dựng báo cáo tổng hợp. Các tiêu chí để tính điểm như Bảng 3.

Bảng 3: Các tiêu chí tính điểm

Mã tiêu chí

Tiêu chí

Tổng điểm cấp 1

A

Sản phẩm, Dịch vụ và Khách hàng

100

B

Nguồn lực và quy trình

100

C

Chuyển đổi số và phát triển bền vững

100

D

Giám sát & đánh giá, quản lý dữ liệu, và quản lý dựa trên kết quả

100

E

Truyền thông, Trách nhiệm giải trình, Độ tin cậy

100

F

Quản lý, chiến lược và định hướng

100

Tổng

600

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Các bước và quy trình đo lường TPCI cho các đơn vị

Quy trình đo lường TPCI cho các đơn vị gồm các bước: (1) Xác định đơn vị được khảo sát; (2) Lựa chọn đối tượng được điều tra (trưởng phòng trở lên), mỗi đơn vị cử 2-3 người điền phiếu độc lập (điền vào file excel mẫu Ver2.0); (3) Thu thập phiếu từ các đơn vị được khảo sát; (4) Kiểm tra lại dữ liệu đã thu thập; (5) Tính toán, phân tích kết quả TPCI của từng đơn vị và của các đơn vị; (6) Viết/ xây dựng báo cáo các chỉ số của từng đơn vị, tập trung phân tích những thiếu hụt, hạn chế cần khắc phục, khả năng hỗ trợ từ các đơn vị trong hệ thống (từ Cục XTTM hoặc trên cơ sở so sánh giữa các đơn vị có thể chỉ ra những đơn vị với thế mạnh có thể trở thành điểm sáng, hình mẫu ở từng loại nghiệp vụ nhất định để các đơn vị khác tham khảo cách thức tổ chức, cung ứng dịch vụ).

ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA BỘ CHỈ SỐ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI SAU QUÁ TRÌNH THỬ NGHIỆM

Bộ chỉ số TPCI đã chứng tỏ giá trị ban đầu như một công cụ sàng lọc quan trọng. Bằng cách áp dụng một bộ tiêu chí được chuẩn hóa trên toàn hệ thống, TPCI cung cấp một bức tranh tổng thể đầu tiên, cho phép các nhà hoạch định chính sách và bản thân các đơn vị XTTM định vị được năng lực của mình trong một khung tham chiếu chung. Vai trò này đặc biệt hữu ích trong việc xác định các xu hướng và điểm yếu mang tính phổ biến trên diện rộng.

Cụ thể, dữ liệu TPCI đã chỉ ra chính xác các lĩnh vực yếu kém chung mà phần lớn các đơn vị XTTM Việt Nam đang đối mặt. Ví dụ, trụ cột chuyển đổi số có điểm trung bình toàn hệ thống chỉ đạt 42%, cho thấy đây là khía cạnh yếu nhất. Tương tự, năng lực về giám sát và đánh giá, quản lý dữ liệu cũng ở mức rất thấp, với các chỉ số thành phần như Khả năng truy cập, thu thập và chia sẻ thông tin có hệ thống chỉ đạt 32% và Ghi chép, quản lý dữ liệu khách hàng đạt 44%. Các lĩnh vực khác như phát triển bền vững (nhận thức ở mức 58-60%) và chất lượng nguồn nhân lực (hiểu biết về thị trường quốc tế chỉ đạt 59,6 điểm) cũng được TPCI nhận diện là những rào cản lớn.

Về bản chất, TPCI hoạt động hiệu quả như một "máy quét" (scanner) hơn là một "máy chẩn đoán" (diagnostic tool). Chỉ số có thể chỉ ra cái gì đang yếu, nhưng chưa thể giải thích đầy đủ tại sao nó yếu hoặc mức độ yếu kém trong thực tiễn vận hành ra sao. Dù vậy, giá trị lớn nhất của TPCI ở giai đoạn này là tạo ra một bộ khung tham chiếu để các đơn vị bắt đầu quá trình tự đánh giá, so sánh và học hỏi lẫn nhau, đặt nền móng cho các nỗ lực cải thiện năng lực một cách có hệ thống.

KẾT LUẬN

Vị thế của Việt Nam trong nền kinh tế thế giới đang ngày càng được củng cố và việc đầu tư hỗ trợ mạng lưới XTTM đang ngày càng được chú trọng. Qua đó cho thấy, sự cần thiết phải đánh giá và có một bộ thước đo, chỉ số đánh giá năng lực XTTM để có thể xây dựng những nội dung hỗ trợ và quyết định đầu tư phù hợp, giúp nâng cao năng lực cho các cơ quan, tổ chức XTTM, với mục tiêu đóng góp giải pháp để củng cố cho hệ thống và chất lượng vận hành của mạng lưới XTTM.

Việc xây dựng và áp dụng bộ chỉ số năng lực XTTM là đóng góp cần thiết và quan trọng nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách trong quản lý và đẩy mạnh hoạt động XTTM của Việt Nam. Qua đó, hoạt động XTTM được triển khai rộng khắp, thu hút nhiều chủ thể tham gia thực hiện, hỗ trợ các hiệp hội ngành hàng, các địa phương và cộng đồng doanh nghiệp trong việc phát triển thị trường trong nước và xuất khẩu, kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu, góp phần nâng cao uy tín, thương hiệu hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Công Thương (2023). Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2022-2023. Nxb Công Thương.

2. Cục Xúc tiến Thương mại (2024). Báo cáo tổng kết hoạt động xúc tiến thương mại giai đoạn 2020-2023.

3. International Trade Centre (2021). Trade Promotion Organization Benchmarking Report. Geneva: ITC.

4. International Trade Centre (ITC) (2022). Capacity Development Framework for Trade Promotion Organizations. Geneva: ITC.

5. Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2023). Báo cáo Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2022.

6. Trần Minh Hoàng và Nguyễn Thị Lan (2021). Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam thông qua xúc tiến thương mại. Tạp chí Kinh tế & Phát triển, 280(2), 45-53.

7. United Nations Conference on Trade and Development (2020). Trade and Development Report. Geneva: UNCTAD.

8. World Trade Organization (2022). World Trade Statistical Review 2022. Geneva: WTO.

Ngày nhận bài: 5/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 27/8/2025; Ngày duyệt đăng: 29/8/2025