Xu hướng đầu tư xanh trên thị trường chứng khoán của giới trẻ Việt Nam
Đinh Thị Thúy Hằng
Email: hang.dinhthithuy@hoasen.edu.vn
Ngô Minh Trà
Email: tra.ngominh@hoasen.edu.vn
Trường Đại học Hoa Sen
Trương Thị Hồng Minh
Trường Đại học Văn Lang
Email: minh.tth@vlu.edu.vn
Tóm tắt
Nghiên cứu phân tích xu hướng đầu tư xanh của giới trẻ Việt Nam trên thị trường chứng khoán thông qua phương pháp phân tích cấu trúc tuyến tính bình phương từng phần nhỏ nhất (PLS-SEM) trên dữ liệu khảo sát 212 giới trẻ Việt Nam từ 18-30 tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy, Thái độ đối với đầu tư xanh, Ảnh hưởng xã hội và Tránh rủi ro tác động tích cực đến Ý định đầu tư xanh, trong khi Kiến thức tài chính không tác động đến Ý định đầu tư xanh của giới trẻ Việt Nam trên thị trường chứng khoán.
Từ khóa: Đầu tư xanh, giới trẻ Việt Nam, thị trường chứng khoán, kiến thức tài chính, tránh rủi ro
Summary
Using Partial least squares structural equation modeling (PLS-SEM), the study analyzes the trend of green investment among Vietnamese youth in the stock market. Survey data were collected from 212 young Vietnamese respondents aged 18-30. The results indicate that attitudes toward green investment, social influence, and risk aversion have a positive impact on the intention to invest in green stocks. In contrast, financial literacy does not significantly affect the green investment intention of Vietnamese youth in the stock market
Keywords: Green investment, Vietnamese youth, stock market, financial literacy, risk aversion
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xu hướng đầu tư xanh đang ngày càng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trẻ Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu và phát triển bền vững trở thành vấn đề cấp thiết toàn cầu. Đầu tư xanh được hiểu là việc phân bổ vốn vào các dự án, doanh nghiệp hoặc sản phẩm tài chính nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội (OECD, 2020). Đầu tư xanh không chỉ dừng lại ở lĩnh vực năng lượng tái tạo mà còn mở rộng sang nhiều lĩnh vực như: giao thông xanh, tài chính xanh và bất động sản bền vững (UNEP, 2021). Một trong những công cụ tài chính phổ biến là trái phiếu xanh và cổ phiếu xanh được chính phủ và doanh nghiệp phát hành để tài trợ cho các dự án môi trường (Flammer, 2021).
Tại Việt Nam, thị trường chứng khoán đang chứng kiến sự gia tăng đáng kể của các sản phẩm đầu tư xanh, phản ánh nhu cầu ngày càng tăng đối với các doanh nghiệp có trách nhiệm với môi trường và xã hội. Giới trẻ Việt Nam, với sự nhạy bén về công nghệ và ý thức môi trường ngày càng cao, đang dần trở thành lực lượng quan trọng trong việc định hình xu hướng đầu tư mới này. Tuy nhiên, việc nghiên cứu cụ thể về xu hướng đầu tư xanh của nhóm đối tượng này trên thị trường chứng khoán Việt Nam còn hạn chế. Nghiên cứu này phân tích xu hướng đầu tư xanh của giới trẻ Việt Nam trên thị trường chứng khoán và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến ý định đầu tư của họ. Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp cái nhìn sâu sắc về hành vi đầu tư của giới trẻ, đồng thời đề xuất các giải pháp để thúc đẩy đầu tư xanh bền vững trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý thuyết
Các thang đo trong nghiên cứu này được xây dựng dựa trên Lý thuyết Hành vi dự định (TPB) do Ajzen (1991) phát triển, được sử dụng để giải thích và dự đoán hành vi của nhà đầu tư trong lĩnh vực đầu tư. TPB đề xuất rằng, hành vi được hình thành từ 3 yếu tố: thái độ đối với hành vi, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi.
Một số nghiên cứu đã mở rộng TPB bằng cách bổ sung biến Tránh rủi ro và Kiến thức tài chính. Nghiên cứu của Grable (2000) cho thấy mức độ ngại rủi ro cao làm giảm khả năng tham gia vào các khoản đầu tư mới. Kết quả này được củng cố bởi nghiên cứu của Weber và Milliman (1997), khi khẳng định rằng nhà đầu tư ngại rủi ro thường ưu tiên các kênh an toàn và ít biến động hơn. Trong khi đó, Widyastuti và cộng sự (2022) chứng minh rằng, những nhà đầu tư ít ngại rủi ro lại có ý định mạnh mẽ hơn đối với các sản phẩm tài chính xanh. Lusardi và Mitchell (2014) nhấn mạnh rằng, kiến thức tài chính là điều kiện tiên quyết giúp cá nhân ra quyết định đầu tư hiệu quả. Tương tự, nghiên cứu của Van Rooij và cộng sự (2011) chỉ ra rằng, những người có hiểu biết tài chính cao có xu hướng tích cực hơn trong việc tham gia thị trường chứng khoán nhờ khả năng phân tích tốt hơn. Theo Nguyên và cộng sự (2021), kiến thức tài chính không chỉ cải thiện ý định đầu tư, mà còn làm giảm tác động tiêu cực của sự ngại rủi ro đối với hành vi đầu tư xanh
Từ đó có thể thấy, nghiên cứu mở rộng TPB kết hợp các yếu tố bổ sung như: tránh rủi ro và kiến thức tài chính làm gia tăng khả năng giải thích hành vi đầu tư. Vì vậy, TPB được xác định là nền tảng lý thuyết phù hợp cho nghiên cứu ý định đầu tư xanh, đặc biệt khi tích hợp thêm các yếu tố tài chính và tâm lý rủi ro.
Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết
Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu đi trước, nhóm tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu xu hướng đầu tư xanh trên thị trường chứng khoán của giới trẻ Việt Nam như Hình 1.
Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất
Nguồn: Nhóm tác giả đề xuất
Từ mô hình nghiên cứu đề xuất, các giả thuyết được đưa ra như sau:
H1: Thái độ đối với đầu tư có ảnh hưởng thuận chiều đến Ý định đầu tư xanh.
H2: Kiến thức tài chính có ảnh hưởng thuận chiều đến Ý định đầu tư xanh.
H3: Ảnh hưởng xã hội có ảnh hưởng thuận chiều đến Ý định đầu tư xanh.
H4: Tránh rủi ro có ảnh hưởng thuận chiều đến Ý định đầu tư xanh.
Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, phương pháp phân tích cấu trúc tuyến tính bình phương từng phần nhỏ nhất (PLS-SEM) được sử dụng nhằm kiểm định mối quan hệ giữa các yếu tố đã xác định với ý định đầu tư xanh của giới trẻ Việt Nam. Dữ liệu được thu thập trong giai đoạn từ tháng 4-10/2024 thông qua khảo sát nhóm đối tượng từ 18-30 tuổi. Bảng hỏi áp dụng thang đo Likert 5 mức độ để thuận tiện cho việc ghi nhận ý kiến của người trả lời. Tổng số phiếu thu về là 230, sau khi loại bỏ những trường hợp không hợp lệ, còn lại 212 quan sát được sử dụng cho quá trình phân tích chính thức (Nghiên cứu sử dụng cách viết số thập phân theo chuẩn quốc tế).
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Mô tả mẫu
Kết quả thống kê mô tả mẫu cho thấy, nữ chiếm 60.4% và hầu hết thuộc nhóm tuổi 18-25 (96.2%). Phần lớn người tham gia khảo sát có trình độ đại học (98.6%) và mức thu nhập dưới 20 triệu đồng/tháng (90,6%), phản ánh đặc trưng của nhóm khách hàng trẻ với thu nhập trung bình.
Đánh giá mô hình đo lường
Kết quả Bảng 1 cho thấy các thang đo đạt độ tin cậy, cụ thể: Cronbach’s Alpha từ 0.770-0.898 và độ tin cậy tổng hợp (CR) từ 0.862-0.925 lớn hơn ngưỡng 0.7 được khuyến nghị bởi Fornel và Larcker (1981). Mặt khác, hệ số tải nhân tố bên ngoài (OL) và phương sai trích (AVE) là 2 chỉ số được sử dụng để đánh giá giá trị hội tụ. Hệ số tải nhân tố bên ngoài của các biến đều > 0.7, ngoại trừ FL4 (0.676) và RA5 (0.611). Theo đề xuất của Hair và cộng sự (2017); Chin (1998), hệ số tải nhân tố bên ngoài > 0.6 vẫn có thể được giữ nếu CR > 0.7 và AVE > 0.5. Theo kết quả Bảng 1, AVE đạt từ 0.619-0.716 đều > 0.5 và CR > 0.7. Vì vậy, biến FL4 và RA5 vẫn được giữ trong mô hình đo lường và các nhân tố đều đạt giá trị phân biệt.
Bảng 1: Tóm tắt kết quả trong mô hình PLS - SEM
|
Nhân tố |
Biến số |
OL |
Cronbach’s Alpha |
CR |
AVE |
VIF |
|
Kiến thức tài chính (FL) |
FL1 |
0.885 |
0.789 |
0.865 |
0.619 |
2.531 |
|
FL2 |
0.706 |
1.321 |
||||
|
FL3 |
0.858 |
2.365 |
||||
|
FL4 |
0.676 |
1.383 |
||||
|
Thái độ đối với đầu tư (ATI) |
ATI1 |
0.871 |
0.867 |
0.910 |
0.716 |
2.917 |
|
ATI2 |
0.786 |
2.256 |
||||
|
ATI3 |
0.878 |
3.236 |
||||
|
ATI4 |
0.847 |
2.770 |
||||
|
Ảnh hưởng xã hội (SN) |
SN1 |
0.812 |
0.770 |
0.862 |
0.675 |
1.819 |
|
SN2 |
0.800 |
1.758 |
||||
|
SN3 |
0.853 |
1.380 |
||||
|
Tránh rủi ro (RA) |
RA1 |
0.753 |
0.856 |
0.895 |
0.635 |
1.990 |
|
RA2 |
0.876 |
2.522 |
||||
|
RA3 |
0.882 |
2.808 |
||||
|
RA4 |
0.830 |
2.227 |
||||
|
RA5 |
0.611 |
1.566 |
||||
|
Ý định đầu tư xanh (INT) |
INT1 |
0.870 |
0.898 |
0.925 |
0.711 |
2.690 |
|
INT2 |
0.873 |
2.663 |
||||
|
INT3 |
0.846 |
2.444 |
||||
|
INT4 |
0.812 |
2.172 |
||||
|
INT5 |
0.812 |
2.115 |
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của nghiên cứu
Bảng 2 cho thấy, chỉ số HTMT đều < 0.90 được khuyến nghị bởi Hair và cộng sự (2022). Cụ thể, giá trị HTMT dao động từ 0.574 (giữa RA và SN) đến 0.902 (giữa ATI và FL). Trong đó, cặp biến ATI - FL có giá trị HTMT cao nhất (0.902), xấp xỉ ngưỡng 0.90, tuy nhiên vẫn nằm trong ngưỡng chấp nhận được. Các cặp biến còn lại đều có giá trị HTMT < 0.85, cho thấy mức độ phân biệt rõ ràng giữa các khái niệm. Như vậy, kết quả này khẳng định mô hình nghiên cứu đạt được giá trị phân biệt.
Bảng 2: Chỉ số tương quan HTMT, PLS – SEM
|
|
ATI |
FL |
INT |
RA |
SN |
|
ATI |
|
|
|
|
|
|
FL |
0.902 |
|
|
|
|
|
INT |
0.835 |
0.772 |
|
|
|
|
RA |
0.641 |
0.588 |
0.758 |
|
|
|
SN |
0.607 |
0.782 |
0.667 |
0.574 |
|
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của nghiên cứu
Đánh giá mô hình cấu trúc và kiểm định giả thuyết
Đánh giá mô hình đo lường dựa vào việc đánh giá sự phù hợp của mô hình, đo lường hệ số xác định R2 điều chỉnh, đo lường đường hệ số tác động và giá trị T-value.
Hình 2: Mô hình cấu trúc PLS-SEM
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của nghiên cứu
Bảng 3: Chỉ số đánh giá độ phù hợp của mô hình
|
Chỉ số |
Estimated model |
|
SRMR |
0.08 |
|
d_ULS |
1.71 |
|
d_G |
0.65 |
|
Chi-square |
836.17 |
|
NFI |
0.74 |
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của nghiên cứu
Bảng 3 cho thấy chỉ số SRMR = 0.08, đạt ngưỡng 0.08, phản ánh mô hình cấu trúc phù hợp với bộ dữ liệu. Các giá trị d_ULS = 1.71 và d_G = 0.65 ở mức thấp, chứng tỏ sai lệch giữa ma trận quan sát và ma trận dự đoán là không đáng kể, đảm bảo độ tin cậy của kết quả phân tích. Mặc dù chỉ số NFI = 0.737 chưa đạt mức tối ưu, song vẫn vượt ngưỡng cơ bản 0.70 theo khuyến nghị của Hair và công sự (2017). Nhìn chung, các chỉ số cho thấy mô hình đạt mức phù hợp ở ngưỡng chấp nhận và có thể thực hiện phân tích các mối quan hệ giả thuyết. Mặt khác, hệ số xác định (R2) = 68.2% cho thấy các biến trong mô hình giải thích được 68.2% sự biến thiên của hành vi đầu tư xanh.
Bảng 4: Tổng hợp kiểm định giả thuyết
|
|
Giả thuyết |
Hệ số tác động |
P values |
Kết luận |
|
|
ATI → INT |
H1 |
0.377 |
0.000 |
*** |
Chấp nhận |
|
FL → INT |
H2 |
0.095 |
0.166 |
|
Bác bỏ |
|
SN → INT |
H4 |
0.167 |
0.002 |
* |
Chấp nhận |
|
RA → INT |
H3 |
0.358 |
0.000 |
*** |
Chấp nhận |
Ghi chú: mức ý nghĩa: * < 0.01; ** < 0.05; *** < 0.001
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của nghiên cứu
Với 5.000 lần lặp Bootstrap, kết quả nghiên cứu cho thấy, Thái độ đối với đầu tư xanh (ATI) có ảnh hưởng tích cực đến Ý định đầu tư xanh (INT), với β = 0.377; p = 0.000 < 0.05; do đó, giả thuyết H1 được chấp nhận. Ngược lại, Kiến thức tài chính (FL) không có ý nghĩa thống kê (β = 0.095; p = 0.166 > 0.05), nên giả thuyết H2 bị bác bỏ. Ảnh hưởng xã hội (SN) cũng cho thấy tác động tích cực (β = 0.167; p = 0.002 < 0.05), nên giả thuyết H3 được chấp nhận. Ngoài ra, Tránh rủi ro (RA) cũng tác động đáng kể đến Ý định đầu tư xanh (β = 0.358; p = 0.000 < 0.05), do vậy, giả thuyết H4 được chấp nhận.
Như vậy, nghiên cứu chỉ ra 3 yếu tố: Thái độ đối với đầu tư, Ảnh hưởng xã hội và Tránh rủi ro tác động đáng kể đến Ý định đầu tư xanh, trong khi Kiến thức tài chính không có tác động đến Ý định đầu tư xanh của giới trẻ Việt Nam
KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý QUẢN TRỊ
Kết quả nghiên cứu cho thấy, Thái độ đối với đầu tư, Ảnh hưởng xã hội và Tránh rủi ro tác động trực tiếp đến Ý định đầu tư xanh của nhà đầu tư trẻ. Kết quả này có sự tương đồng với nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước, đồng thời phù hợp với Lý thuyết TPB trong việc giải thích ý định đầu tư xanh.
Từ kết quả nghiên cứu, một số hàm ý quản trị được đề xuất nhằm khuyến khích hành vi đầu tư xanh và phát triển thị trường tài chính bền vững như sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức và thái độ tích cực của nhà đầu tư: Thực hiện các chiến dịch truyền thông, hội thảo và báo cáo minh bạch về hiệu quả kinh tế - xã hội của đầu tư xanh.
Thứ hai, tác động đến chuẩn mực xã hội: Tăng cường vai trò định hướng của các hiệp hội nghề nghiệp, quỹ đầu tư và cơ quan quản lý để tạo áp lực xã hội tích cực khuyến khích đầu tư xanh.
Thứ ba, phát triển công cụ kiểm soát và giảm thiểu rủi ro: Xây dựng cơ chế bảo hiểm rủi ro, hỗ trợ thuế và các chính sách ưu đãi để tăng cường khả năng kiểm soát hành vi đầu tư của nhà đầu tư.
Tài liệu tham khảo:
1. Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior, Organizational Behavior and Human Decision Processes, 50, 179-211.
2. Chin, W. W. (1998). The partial least squares approach for structural equation modeling, In G. A. Marcoulides (Ed.), Modern methods for business research, Lawrence Erlbaum.
3. Flammer, C. (2021). Corporate green bonds, Journal of Financial Economics, 142(2), 499-516.
4. Fornell, C., and Larcker, D. F. (1981). Evaluating structural equation models with unobserved variables and measurement error, Journal of Marketing, 18(1), 39-50.
5. Grable, J. E. (2000). Financial risk tolerance and additional factors that affect risk taking in everyday money matters, Journal of Business and Psychology, 14(4), 625-630, https://doi.org/10.1023/A:1022994314982.
6. Hair, J. F., Hult, G. T. M., Ringle, C. M., and Sarstedt, M. (2017). A primer on partial least squares structural equation modeling (PLS-SEM) (2nd ed.), SAGE.
7. Hair, J. F., Hult, G. T. M., Ringle, C. M., & Sarstedt, M. (2022). A primer on partial least squares structural equation modeling (PLS-SEM) (3rd ed.). SAGE.
8. Lusardi, A., and Mitchell, O. S. (2014). The economic importance of financial literacy: Theory and evidence, Journal of Economic Literature, 52(1), 5-44, https://doi.org/10.1257/jel.52.1.5.
9. Nguyen, T. A. N., Ha, H. T. V., and Bui, T. N. (2021). Financial literacy and sustainable investment intention: The mediating role of risk perception, Journal of Sustainable Finance & Investment, https://doi.org/10.1080/20430795.2021.1909475.
10. OECD (2020). OECD business and finance outlook 2020: Sustainable and resilient finance, OECD Publishing.
11. UNEP (2021). Green finance and investment: Green infrastructure in practice.
12. Van Rooij, M., Lusardi, A., and Alessie, R. (2011). Financial literacy and stock market participation, Journal of Financial Economics, 101(2), 449-472, https://doi.org/10.1016/j.jfineco.2011.03.006.
13. Weber, E. U., and Milliman, R. A. (1997). Perceived risk attitudes: Relating risk perception to risky choice, Management Science, 43(2), 123-144, https://doi.org/10.1287/mnsc.43.2.123.
14. Widyastuti, U., Narmaditya, B. S., and Sari, D. A. P. (2022). Risk tolerance and green investment intention: Evidence from emerging markets, Cogent Economics & Finance, 10(1), 2026658, https://doi.org/10.1080/23322039.2022.2026658.
| Ngày nhận bài: 25/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 17/9/2025; Ngày duyệt đăng: 26/9/2025 |

Bình luận