Nguyễn Thị Hải Ly

Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Email: nguyenthihaily@haui.edu.vn

Tóm tắt

Nghiên cứu này cung cấp một cái nhìn tổng quan về công bố thông tin tài chính (TTTC). Dữ liệu được thu thập từ cơ sở dữ liệu Scopus trong giai đoạn 2003-2023, với tổng cộng 780 nghiên cứu về chủ đề này. Phân tích thư mục được thực hiện bằng phần mềm VOSviewer kết hợp với MS Excel, kết quả được trình bày thông qua các bảng số liệu cùng với hình ảnh trực quan. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ dựa vào dữ liệu từ Scopus, vì vậy, kết quả phân tích có thể chưa phản ánh đầy đủ toàn bộ các nghiên cứu trong lĩnh vực này. Các nghiên cứu trong tương lai có thể bổ sung thêm nguồn dữ liệu từ các cơ sở tài liệu khác để nâng cao tính khách quan và phạm vi nghiên cứu.

Từ khóa: công bố thông tin tài chính, phân tích trắc lượng thư mục, VOSviewer

Summary

This study provides an overview of financial disclosure. Data were collected from the Scopus database for 2003-2023, with 780 studies on this topic. Bibliometric analysis was performed using VOSviewer software combined with MS Excel; the results were presented through data tables and visual images. However, this study only relied on data from Scopus, so the analysis results may not fully reflect all studies in this field. Future studies can add data sources from other document databases to improve the objectivity and scope of the study.

Keywords: financial disclosure, bibliometric analysis, VOSviewer

ĐẶT VẤN ĐỀ

Công bố TTTC là một khía cạnh quan trọng của tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp. Bắt đầu bằng phần tổng quan ngắn gọn về sự phát triển của công bố TTTC, nghiên cứu tiếp tục giới thiệu về công cụ phân tích (VOSviewer) và quy trình tìm kiếm dữ liệu. Kết quả từ các bài báo trích dẫn và tài liệu tham khảo của chúng được trình bày trực quan qua các bảng tổng hợp và hình ảnh minh họa. Nghiên cứu còn chỉ ra các xu hướng nghiên cứu quan trọng, bao gồm: sự gia tăng trong các bài viết nghiên cứu, các tác giả hàng đầu, tạp chí chủ chốt, quốc gia, tổ chức và tài liệu tham khảo quan trọng, đồng thời làm sáng tỏ quá trình phát triển của công bố TTTC. Các bảng đồ mạng lưới cũng giúp dễ dàng nhận diện các xu hướng nghiên cứu trong lĩnh vực này. Cuối cùng, nghiên cứu kết luận với các phát hiện chính, đóng góp về phương pháp nghiên cứu và thực tiễn, đồng thời chỉ ra một số hạn chế của nghiên cứu.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tổng quan nghiên cứu

Lang và cộng sự (1993) xem xét các yếu tố quyết định theo chiều ngang xếp hạng của các nhà phân tích về việc công bố thông tin của doanh nghiệp và phát hiện ra rằng, đánh giá của các nhà phân tích bị ảnh hưởng bởi quy mô công ty, hiệu suất, mối tương quan giữa thu nhập và lợi nhuận và phát hành chứng khoán. Malone và cộng sự (1993) đã nghiên cứu mức độ công bố TTTC trong ngành dầu khí, sử dụng chỉ số có trọng số của các mục công bố thông tin để đo lường mức độ công bố thông tin. Patton và cộng sự (1997) đã phát triển và thử nghiệm một mô hình công bố thông tin cho các công ty cổ phần của Séc, dựa trên nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm trước đây về công bố thông tin tự nguyện. Admati và cộng sự (1998) đã phân tích một mô hình công bố thông tin tự nguyện của các công ty và tác động của quy định về công bố thông tin. Vanstraelen và cộng sự (2003) đã khám phá các hoạt động công bố thông tin phi tài chính của doanh nghiệp trên 3 quốc gia châu Âu và mối quan hệ của chúng với khả năng dự báo của các nhà phân tích tài chính. Mangena và cộng sự (2005) đã tìm thấy mối liên hệ tiêu cực giữa việc nắm giữ cổ phần của ủy ban kiểm toán và việc công bố thông tin tạm thời, cũng như mối liên hệ tích cực giữa việc công bố thông tin tạm thời và chuyên môn tài chính của ủy ban kiểm toán. Bamber và cộng sự (2008) đã điều tra ảnh hưởng của các nhà quản lý cấp cao đến việc công bố TTTC tự nguyện của công ty.

VOSViewer là một công cụ phần mềm mạnh mẽ được thiết kế để phân tích thư mục, cho phép các nhà nghiên cứu hình dung và phân tích tài liệu khoa học một cách hiệu quả. Nó tạo điều kiện cho việc lập bản đồ các mạng cộng tác, xác định xu hướng nghiên cứu và đánh giá tác động khoa học thông qua hình ảnh trực quan thân thiện với người dùng. Khả năng xử lý các tập dữ liệu lớn của phần mềm mà không yêu cầu kiến thức lập trình làm cho nó đặc biệt có giá trị đối với các nhà nghiên cứu trên các lĩnh vực khác nhau.

Phân tích thư mục là một công cụ có giá trị trong việc đánh giá nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Kaparthi (2005) trình bày các phân phối theo chức năng quản lý, ngành và thị trường, môi trường kinh doanh và từ khóa, cung cấp thông tin chi tiết về các khả năng nghiên cứu trong tương lai. Moed và cộng sự (2005) đã mô tả một cơ sở dữ liệu thư mục mới dựa trên các bài báo do các tác giả từ Hà Lan xuất bản, nhấn mạnh tầm quan trọng của dữ liệu trích dẫn chi tiết và hệ thống phân loại. Ellegaard và cộng sự (2015) nhấn mạnh tầm quan trọng của các phương pháp thư mục trong đánh giá nghiên cứu, đặc biệt là trong các lĩnh vực khoa học và ứng dụng. Mongeon và cộng sự (2015) so sánh việc sử dụng các phương pháp thư mục trong Web of Science và Scopus cho mục đích đánh giá nghiên cứu. Köseoglu và cộng sự (2016) nêu bật các ứng dụng đa dạng của phân tích trắc lượng thư mục trong các lĩnh vực khác nhau. Nhìn chung, phân tích trắc lượng thư mục đã trở thành một công cụ thiết yếu để đánh giá đầu ra nghiên cứu, hợp tác giữa các trường đại học và tác động của tài trợ khoa học đối với hiệu suất nghiên cứu Moral-Muñoz và cộng sự (2020). Donthu và cộng sự (2021) đã cung cấp tổng quan và hướng dẫn về cách tiến hành phân tích trắc lượng thư mục, nêu bật tầm quan trọng của phương pháp luận và kỹ thuật phân tích phù hợp trong việc sử dụng dữ liệu trắc lượng thư mục một cách hiệu quả.

Phương pháp nghiên cứu

Nguồn dữ liệu và phương pháp tìm kiếm

Nghiên cứu sử dụng cơ sở dữ liệu Scopus để phân tích trắc lượng thư mục, với khoảng thời gian từ năm 2003 đến 2023. Cụm từ “Financial disclosure” được chọn làm từ khóa chính trong tiêu đề, tóm tắt và các từ khóa liên quan của các ấn phẩm để tìm kiếm các nghiên cứu liên quan đến công bố TTTC. Tìm kiếm ban đầu cho ra 5.215 tài liệu. Sau đó, để thu hẹp tập dữ liệu, tìm kiếm được giới hạn với tiêu chí: (i) Lĩnh vực chủ đề: “Kinh doanh, quản lý và kế toán” và “Kinh tế, kinh tế lượng và tài chính”; (ii) Ngôn ngữ xuất bản là tiếng Anh. Phương pháp này đảm bảo rằng, các bài viết thu thập được sẽ có sự liên quan và phù hợp với lĩnh vực nghiên cứu về công bố TTTC. Tác giả đã điều chỉnh phạm vi tìm kiếm để bao quát các nghiên cứu được xuất bản từ năm 2003-2023, nhằm xác định những nghiên cứu quan trọng trong lĩnh vực này. Tổng số tài liệu sau khi được sàng lọc giảm xuống còn 780 tài liệu. Chuỗi truy vấn cuối cùng được sử dụng trong tìm kiếm Scopus như sau:

TITLE-ABS-KEY ( “financial disclosure”) AND PUBYEAR > 2002 AND PUBYEAR < 2024 AND (LIMIT-TO (SUBJAREA, “BUSI”) OR LIMIT-TO (SUBJAREA , “ECON”) ) AND (LIMIT-TO (LANGUAGE , “English” ) )

Sàng lọc Prisma

Dựa trên hướng dẫn của Moher và cộng sự (2009) về Mục báo cáo ưu tiên dành cho đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp (PRISMA) để tìm kiếm tài liệu, tác giả đã thực hiện quá trình tìm kiếm và sàng lọc dữ liệu theo quy trình tại Hình 1. Tìm kiếm Scopus ban đầu mang lại 5.215 tài liệu. Ở bước sàng lọc kiểm tra, có 4.435 tài liệu bị từ chối do không đáp ứng được yêu cầu của tiêu chí tìm kiếm. Sau đó, 780 tài liệu đã được đọc để kiểm tra tiêu đề và phần tóm tắt nhằm xác định mức độ liên quan theo chủ đề của từng tài liệu. Thêm 63 tài liệu đã bị loại khỏi danh sách Scopus do các chủ đề không liên quan. Cơ sở dữ liệu cuối cùng bao gồm 717 tài liệu được lập chỉ mục theo Scopus thuộc nhiều loại khác nhau, tập trung vào công bố TTTC (Hình 1).

Hình 1: Xử lý tính đủ điều kiện của tài liệu dựa trên hướng dẫn PRISMA

Xu hướng nghiên cứu về công bố thông tin tài chính của  các tổ chức: Một đánh giá trắc lượng thư mục

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Mô tả tài liệu truy xuất

Tài liệu thư mục phân tích được thu thập từ dữ liệu Scopus từ các loại tài liệu và các loại nguồn sau khi được sàng lọc qua các vòng còn 717 tài liệu. Tệp dữ liệu này được chuyển sang tệp Excel định dạng .xlsx, sau đó được sử dụng để thực hiện các phân tích thống kê mô tả. Qua bảng thống kê dữ liệu được truy xuất từ dữ liệu Scopus tại Bảng 1 cho thấy, có 587 bài báo, chiếm 81,9% trong tổng số tài liệu. Tiếp theo là chương sách chiếm 6,8%, tương ứng 49 tài liệu. Đứng thứ 3 với tỷ lệ 5,7% là 41 bài tổng quan; bài báo hội nghị đứng thứ 4 với 22 bài, chiếm 3,1%. Còn lại các loại tài liệu khác chỉ chiếm từ 1% trở xuống trong tổng số nghiên cứu. Toàn bộ các tài liệu được xuất bản bằng tiếng Anh theo giới hạn phạm vi tìm kiếm của tác giả.

Bảng 1: Thống kê dữ liệu được truy xuất từ năm 2003-2023

Loại tài liệu

Tổng số

nghiên cứu

Tỷ lệ (%)

Bài báo

587

81,9

Sách

8

1,1

Chương sách

49

6,8

Bài báo hội nghị

22

3,1

Đánh giá hội nghị

1

0,1

Biên tập

4

0,6

Bản đính chính

1

0,1

Ghi chú

3

0,4

Tổng quan

41

5,7

Khảo sát ngắn

1

0,1

Tổng cộng

717

100,0

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ dữ liệu Scopus

Hình 2: Bản đồ mạng của các từ khóa tác giả

Xu hướng nghiên cứu về công bố thông tin tài chính của  các tổ chức: Một đánh giá trắc lượng thư mục

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích trên phần mềm VOSviewer

Bản đồ mạng của các từ khóa đồng xuất hiện phân tích trên phần mềm VOSviewer (Hình 2) với số lần xuất hiện từ khóa tối thiểu là 5 cho thấy, những từ khóa, như: công bố TTTC, quản trị doanh nghiệp, minh bạch phi tài chính, tiết lộ thông tin, báo cáo tài chính, báo cáo bền vững, tiết lộ tự nguyện, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, báo cáo tích hợp, quản lý thu nhập, thông tin sai lệch, chất lượng công bố, là những từ khóa tác giả gặp nhiều nhất. Các hình tròn trong một cụm màu cùng nhau phản ánh mối liên hệ giữa các nghiên cứu có chủ đề tương tự. Mỗi hình tròn tượng trưng cho một lĩnh vực nhỏ thuộc tổng thể nghiên cứu về công bố thông tin. Cụ thể, như minh họa trong cụm màu đỏ (cụm 1, 17 mục), các từ khóa, như: quản trị doanh nghiệp, công khai tài chính, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, tiết lộ tự nguyện, lý thuyết các bên liên quan, quyền sở hữu, cơ cấu sở hữu, khả năng đọc được…, có liên quan tới chủ đề “Công bố TTTC”. Cụm màu xanh lá (cụm 2, 16 mục) với các từ khóa liên quan, như: báo cáo tài chính, quản lý thu nhập, thị trường vốn, giá trị công ty, quy định, bảo vệ nhà đầu tư… được tập trung vào miền tiết lộ/công bố.

Sự gia tăng các tài liệu qua các năm

Hình 3: Biểu đồ gia tăng số lượng tài liệu từ năm 2003-2023

Xu hướng nghiên cứu về công bố thông tin tài chính của  các tổ chức: Một đánh giá trắc lượng thư mục

Nguồn: Kết quả tác giả tổng hợp và trực quan trên Excel

Sự biến động về số lượng tài liệu qua các năm cho thấy một xu hướng tổng thể tăng trưởng mạnh mẽ trong 2 thập niên từ 2003-2023, đặc biệt là từ năm 2014 đến 2023, mặc dù cũng có những giai đoạn giảm sút và ổn định trong khoảng thời gian trước đó.

Giai đoạn đầu (2003-2007) chứng kiến sự biến động nhẹ, với số lượng tài liệu dao động trong khoảng 12-22 tài liệu mỗi năm. Cụ thể, từ năm 2003 đến 2004, số lượng tài liệu không thay đổi, giữ ở mức 12 tài liệu. Tuy nhiên, từ năm 2004 đến 2005, số lượng tài liệu có sự gia tăng nhẹ lên 15 và tiếp tục tăng mạnh lên 22 tài liệu trong năm 2006, đánh dấu mức cao nhất trong giai đoạn này. Tuy nhiên, năm 2007 chứng kiến sự sụt giảm mạnh xuống còn 12 tài liệu, thấp nhất trong giai đoạn đầu. Một số nghiên cứu ban đầu tập trung vào khám phá các hoạt động công bố thông tin phi tài chính của doanh nghiệp trên 3 quốc gia châu Âu và mối quan hệ của chúng với khả năng dự báo của các nhà phân tích tài chính (Vanstraelen và cộng sự, 2003), cũng như tìm thấy mối liên hệ tiêu cực giữa việc nắm giữ cổ phần của ủy ban kiểm toán và việc công bố thông tin tạm thời, cũng như mối liên hệ tích cực giữa việc công bố thông tin tạm thời và chuyên môn tài chính của ủy ban kiểm toán (Mangena và cộng sự, 2005).

Giai đoạn tiếp theo (2008-2013) có sự ổn định tương đối với những biến động không quá lớn, nhưng nhìn chung, số lượng tài liệu duy trì ở mức ổn định. Mặc dù có sự giảm sút từ 19 xuống 10 tài liệu trong năm 2009, nhưng đến năm 2010, số lượng tài liệu đã phục hồi và tăng lên 18 tài liệu. Những năm tiếp theo, từ năm 2011 đến 2013, số lượng tài liệu dao động trong khoảng 19-25 tài liệu mỗi năm, với một mức tăng nhẹ từ 24 lên 25 tài liệu vào năm 2013. Những nghiên cứu trong giai đoạn này đã tìm hiểu mức độ công bố TTTC dưới góc độ điều tra ảnh hưởng của các nhà quản lý cấp cao đến việc công bố TTTC tự nguyện của công ty (Bamber và cộng sự, 2008).

Giai đoạn thứ 3, từ năm 2014 trở đi, số lượng tài liệu bắt đầu tăng trưởng mạnh mẽ. Năm 2014, số lượng tài liệu tăng lên 35 và tiếp tục tăng lên 46 vào năm 2016. Sự tăng trưởng này vẫn tiếp tục duy trì đến năm 2017, khi số lượng tài liệu đạt 54, nhưng bắt đầu giảm nhẹ xuống còn 38 tài liệu vào năm 2018. Tuy nhiên, sự tăng trưởng đột phá bắt đầu xuất hiện từ năm 2019, khi số lượng tài liệu vọt lên 73 và đạt mức cao nhất trong giai đoạn này. Đặc biệt, từ năm 2020-2023, số lượng tài liệu tiếp tục gia tăng mạnh mẽ, với những con số ấn tượng: từ 73 tài liệu năm 2020 lên 94 tài liệu trong năm 2023. Sự gia tăng này không chỉ phản ánh một nhu cầu lớn hơn về tài liệu, mà còn cho thấy sự phát triển trong các lĩnh vực nghiên cứu, công nghệ hoặc sự thay đổi trong các yếu tố chính sách và môi trường nghiên cứu. Christensen và cộng sự (2015) đã nghiên cứu những tác động thực sự của việc công bố thông tin phi tài chính bắt buộc đối với hồ sơ an toàn mỏ trong các báo cáo tài chính, quan sát thấy sự giảm sút trong các trích dẫn và thương tích liên quan đến khai thác mỏ. Gao và cộng sự (2015) đã khám phá các yếu tố quyết định và hậu quả kinh tế của chất lượng công bố thông tin phi tài chính, liên kết các công bố thông tin CSR chất lượng cao hơn với hiệu suất CSR tốt hơn, nhu cầu tài trợ bên ngoài và sức mạnh quản trị doanh nghiệp.

Tóm lại, mặc dù có những giai đoạn giảm sút và ổn định, sự tăng trưởng mạnh mẽ về số lượng tài liệu từ năm 2014-2023 cho thấy sự thay đổi và phát triển rõ rệt trong nhu cầu và sản lượng tài liệu qua thời gian.

Mô hình quyền tác giả, cộng tác và các tác giả tiêu biểu

Trong số 717 tài liệu nghiên cứu, có 1 tài liệu với số lượng đồng tác giả là 11 (chiếm 0,1%). Tổng cộng có 572 tài liệu của nhiều tác giả, chiếm 79,8% và chỉ có 145 tài liệu (chiếm 20,2%) là nghiên cứu của một tác giả (Bảng 2). Điều này cho thấy, tỷ lệ các nghiên cứu theo nhóm tác giả rất lớn.

Bảng 2: Thống kê số lượng tác giả trên mỗi tài liệu

Số tác giả

Số tài liệu

Tỷ lệ (%)

1

145

20,2

2

234

32,6

3

214

29,8

4

87

12,1

5

32

4,5

6

4

0,6

7

0

0

8

0

0

9

0

0

10

0

0

11

1

0,1

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ dữ liệu Scopus

Bảng 3 liệt kê cho thấy, 10 tác giả ở các quốc gia khác nhau đã có số tài liệu được xuất bản nhiều nhất cũng như tổng số trích dẫn lớn. Tác giả có số tài liệu được công bố nhiều nhất với số lượng là 6 với tổng trích dẫn 255 là: Krasodomska, Joanna. Tuy nhiên, tác giả có tổng số trích dẫn cao nhất 582 lượt với 4 tài liệu được công bố là Hope, Ole-kristian.

Bảng 3: Thống kê 10 tác giả có tài liệu công bố nhiều nhất

Xếp hạng

Tác giả

Số tài liệu

Tổng trích dẫn

1

Raimo, Nicola

4

285

2

Vitolla, Filippo

4

285

3

Beretta, Valentina

4

99

4

Trucco, Sara

4

85

5

Mio, Chiara

4

226

6

Venturelli, Andrea

4

217

7

Hope, Ole-kristian

4

582

8

Hussainey, Khaled

5

158

9

Krasodomska, Joanna

6

255

10

Mcdonald, Bill

4

768

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ dữ liệu Scopus

Bản đồ trực quan hóa mạng lưới đồng tác giả với tham số các tác giả có số tài liệu được công bố tối thiểu là 4 và tổng số trích dẫn tối thiểu là 1 được biểu diễn thông qua kỹ thuật VOSviewer (Hình 4). Bản đồ bao gồm 10 vòng tròn đại diện cho 10 tác giả. Chỉ có 3 cặp vòng tròn màu đỏ, màu xanh lá và màu xanh lam có liên kết với nhau, còn lại là các vòng tròn độc lập cho thấy, các tác giả chưa có sự hợp tác nghiên cứu chặt chẽ với nhau.

Hình 4: Bản đồ trực quan hóa mạng lưới đồng tác giả

Xu hướng nghiên cứu về công bố thông tin tài chính của  các tổ chức: Một đánh giá trắc lượng thư mục

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích trên phần mềm VOSviewer

Các nghiên cứu phân bổ theo địa lý

Bảng 4 với dữ liệu về số tài liệu, tổng trích dẫn và cường độ trích dẫn của các quốc gia, có thể rút ra một số nhận định và phân tích về xu hướng nghiên cứu khoa học trong các quốc gia này.

Hoa Kỳ dẫn đầu trong cả 3 chỉ số: số lượng tài liệu (216), tổng trích dẫn (17.509) và tổng số cường độ trích dẫn (33.659). Sự vượt trội của Hoa Kỳ không chỉ thể hiện qua số lượng bài báo nghiên cứu, mà còn ở tầm ảnh hưởng của các công trình khoa học này, với cường độ trích dẫn cao gấp nhiều lần các quốc gia khác. Điều này cho thấy, Hoa Kỳ vẫn là trung tâm nghiên cứu khoa học hàng đầu, thu hút sự chú ý và trích dẫn của cộng đồng nghiên cứu quốc tế.

Italia và Anh đứng sau Hoa Kỳ trong bảng xếp hạng, với số lượng tài liệu lần lượt là 97 và 71, nhưng chỉ số tổng trích dẫn của Italia (2.598) thấp hơn Anh (2.109). Điều này cho thấy, các công trình nghiên cứu của Anh có sức ảnh hưởng mạnh mẽ hơn, dù số lượng tài liệu ít hơn. Italia, mặc dù có số lượng tài liệu khá lớn, nhưng tổng trích dẫn lại không tương xứng, cho thấy các nghiên cứu của quốc gia này có thể chưa đạt được mức độ phổ biến cao như các nghiên cứu của Anh.

Các quốc gia như Úc và Canada có số lượng tài liệu và trích dẫn khá khiêm tốn so với các quốc gia dẫn đầu. Úc có 55 tài liệu với tổng trích dẫn 1.771, trong khi Canada có 38 tài liệu và tổng trích dẫn 1.190. Tuy nhiên, cường độ trích dẫn của các quốc gia này vẫn khá ấn tượng, chứng tỏ rằng, mặc dù số lượng tài liệu không quá lớn, nhưng các công trình nghiên cứu của họ vẫn có ảnh hưởng tương đối lớn trong cộng đồng khoa học quốc tế.

Trung Quốc, với 28 tài liệu và tổng trích dẫn 1.444, có thể chưa đạt được tầm ảnh hưởng như các quốc gia phương Tây, nhưng sự gia tăng nhanh chóng trong nghiên cứu khoa học của Trung Quốc trong những năm gần đây có thể làm thay đổi xu hướng này trong tương lai. Trung Quốc, mặc dù có số tài liệu ít hơn so với các quốc gia như Hoa Kỳ hay Italia, nhưng đã bắt đầu tạo ra những ảnh hưởng nhất định, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ và khoa học - kỹ thuật.

Các quốc gia khác như Đức, Pháp, Hà Lan và Malaysia có số lượng tài liệu và trích dẫn thấp hơn nhiều so với các quốc gia đứng đầu, nhưng vẫn đóng góp một phần quan trọng vào tổng thể nghiên cứu khoa học quốc tế. Đơn cử, Đức có tổng số trích dẫn khá thấp (370), mặc dù số lượng tài liệu khá ít (25). Điều này có thể phản ánh sự tập trung vào các nghiên cứu chuyên sâu hoặc các công trình nghiên cứu có tính chất đặc thù, ít được trích dẫn rộng rãi.

Bảng 4: Thống kê 10 quốc gia có tài liệu công bố nhiều nhất

Xếp hạng

Quốc gia

Số tài liệu

Tổng trích dẫn

Tổng số cường độ trích dẫn

1

Hoa Kỳ

216

17.509

33.659

2

Italia

97

2.598

21.423

3

Anh

71

2.109

16.864

4

Úc

55

1.771

14.421

5

Canada

38

1.190

11.942

6

Trung Quốc

28

1.444

7.923

7

Đức

25

370

5.232

8

Pháp

23

1.099

5.865

9

Hà Lan

19

718

5.420

10

Malaysia

19

753

3.784

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ dữ liệu Scopus

Sự hợp tác giữa các quốc gia được phân tích bằng việc sử dụng phần mềm VOSviewer. Hình 5 cho thấy phân tích ghép nối thư mục của các quốc gia, thể hiện 26 nút (quốc gia) trong 4 cụm và duy trì 325 liên kết quan hệ. Sức mạnh của sự hợp tác có thể được nhìn thấy ở độ dày của các đường nối liên kết. Hoa Kỳ là hạt nhân trung tâm, thể hiện 25 mối quan hệ liên kết, với cường độ lớn hơn Anh, Italia và Úc.

Hình 5: Bản đồ trực quan hóa mạng lưới hợp tác quốc tế giữa các quốc gia

với số lượng tối thiểu 50 tài liệu

Xu hướng nghiên cứu về công bố thông tin tài chính của  các tổ chức: Một đánh giá trắc lượng thư mục

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích trên phần mềm VOSviewer

Mặc dù số lượng tài liệu của mỗi quốc gia có sự khác biệt lớn, nhưng cường độ trích dẫn cho thấy, các quốc gia, như: Hoa Kỳ, Anh và Italia, có những nghiên cứu mang tính ảnh hưởng mạnh mẽ. Điều này cho thấy, sự kết hợp giữa chất lượng và số lượng là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá sự đóng góp của quốc gia vào nền khoa học toàn cầu. Nhìn chung, có sự phân bổ không đều trong nghiên cứu khoa học giữa các quốc gia. Các quốc gia lớn, như: Hoa Kỳ, Italia và Anh, tiếp tục chiếm ưu thế về số lượng tài liệu và cường độ trích dẫn, trong khi các quốc gia khác, như: Trung Quốc, Đức và Pháp, vẫn đang dần gia tăng sự hiện diện trong cộng đồng nghiên cứu toàn cầu. Sự phát triển của nghiên cứu khoa học toàn cầu đang ngày càng trở nên đa dạng hơn và các quốc gia đang cạnh tranh gay gắt để gia tăng ảnh hưởng và đóng góp vào kho tri thức chung của nhân loại.

KẾT LUẬN

Nghiên cứu cung cấp một nghiên cứu thư mục về các loại tài liệu bao gồm: bài báo khoa học, bài báo cáo, sách, chương sách…, liên quan tới công bố thông tin tài chính, đã được lập chỉ mục trong cơ sở dữ liệu Scopus từ năm 2003-2023. Phân tích sự biến động về số lượng tài liệu qua các năm cho thấy một xu hướng tổng thể tăng trưởng mạnh mẽ trong 2 thập niên từ 2003-2023, đặc biệt là từ năm 2014 đến 2023, mặc dù cũng có những giai đoạn giảm sút và ổn định trong khoảng thời gian trước đó. Kết quả phân tích đã xác định các tác giả chính, từ khoá, quốc gia có tài liệu công bố nổi bật. Ngoài ra, kết quả phân tích từ khoá đồng tác giả cho thấy, các cụm từ công bố TTTC, quản trị doanh nghiệp, minh bạch phi tài chính, tiết lộ thông tin, báo cáo tài chính, báo cáo bền vững, tiết lộ tự nguyện, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, báo cáo tích hợp, quản lý thu nhập, thông tin sai lệch, chất lượng công bố là những từ khoá nghiên cứu liên quan đến công bố TTTC.

Bài viết này, với sự hỗ trợ của ứng dụng VOSviewer, đã mở ra một hướng nghiên cứu mang tính chất khám phá về vấn đề công bố TTTC. Việc sử dụng công cụ phân tích mạng lưới như VOSviewer giúp tăng cường khả năng trực quan hóa và định lượng các mối quan hệ giữa các tài liệu nghiên cứu, tác giả, chủ đề và mối liên hệ giữa chúng. Trong khía cạnh này, VOSviewer không chỉ đơn thuần là một công cụ để phân tích các tài liệu hiện có, mà còn giúp vạch ra các xu hướng phát triển trong lĩnh vực nghiên cứu công bố TTTC, từ đó cung cấp cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn.

Thông qua việc phân tích đồng tác giả, đồng xuất hiện và trích dẫn, VOSviewer đã cho phép bài viết này không chỉ mô tả sự phát triển của các nghiên cứu về công bố TTTC qua thời gia,n mà còn chỉ ra những tác giả có ảnh hưởng lớn, những bài viết quan trọng và các mối quan hệ giữa các nghiên cứu trong lĩnh vực này. Điều này cung cấp một góc nhìn trực quan hơn rất nhiều so với cách tiếp cận truyền thống, khi mà việc chỉ đơn giản đọc và phân tích từng tài liệu không thể hiện được các mối quan hệ ẩn giấu giữa các nghiên cứu. VOSviewer cũng cho phép nhìn nhận các xu hướng tương lai của nghiên cứu về công bố TTTC.

Bài viết không chỉ đơn thuần cung cấp một cái nhìn tổng quan về công bố TTTC, mà còn tạo ra một cầu nối giữa các phương pháp phân tích định tính truyền thống với phân tích thư mục định lượng hiện đại. Phân tích thư mục là một công cụ mạnh mẽ trong nghiên cứu khoa học và khi kết hợp với các công cụ trực quan như VOSviewer, nó có thể tạo ra những phát hiện sâu sắc hơn, hỗ trợ các học giả không chỉ trong việc hiểu biết sâu về lịch sử và phát triển của một chủ đề nghiên cứu, mà còn trong việc xây dựng nền tảng cho những nghiên cứu trong tương lai.

Liên quan đến phương pháp tiếp cận của công trình này, những hạn chế sau đây được nêu ra: (i) Sử dụng một cơ sở dữ liệu duy nhất (Scopus), mặc dù là cơ sở dữ liệu được công nhận và sử dụng phổ biến, nhưng có thể loại trừ một số đóng góp quan trọng trong các cơ sở dữ liệu khác (Web of Sciences và Dimensions, trong số những cơ sở dữ liệu khác); (ii) Các tài liệu bằng tiếng Anh, mặc dù là một trong những ngôn ngữ được sử dụng nhiều nhất và có những đóng góp quan trọng nghiên cứu về chủ đề công bố TTTC, nhưng có thể những nghiên cứu bằng ngôn ngữ khác có chất lượng và ảnh hưởng lớn bị loại trừ./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Admati, A., and Pfleiderer, P. (1998), Forcing firms to talk: Financial disclosure regulation and externalities, SSRN Electronic Journal, https://doi.org/10.2139/ssrn.103968.

2. Bamber, L. S., Jiang, J., and Wang, I. Y. (2010), What’s my style? The influence of top managers on voluntary corporate financial disclosure, The Accounting Review, 85(4), 1131-1162, https://doi.org/10.2308/accr.2010.85.4.1131.

3. Christensen, H. B., Floyd, E., Liu, L. Y., and Maffett, M. G. (2015), The real effects of mandatory non-financial disclosures in financial statements, SSRN Electronic Journal, https://doi.org/10.2139/ssrn.2680296.

4. Donthu, N., Kumar, S., Pandey, N., and Gupta, P. (2021), Forty years of the International Journal of Information Management: A bibliometric analysis, International Journal of Information Management, 57, 102307.

5. Ellegaard O and Wallin JA, (2015), The bibliometric analysis of scholarly production: How great is the impact? Scientometrics, 105, 1809-1831.

6. Gao, F., Dong, Y., Ni, C., and Fu, R. (2015), Determinants and economic consequences of non-financial disclosure quality, European Accounting Review, 25(2), 287-317, https://doi.org/10.1080/09638180.2015.1013049.

7. Kaparthi, S. (2005), A Bibliometric Analysis, Journal of Decision Systems, 14(1-2), 157-177.

8. Lang, M., and Lundholm, R. (1993), Cross-sectional determinants of analyst ratings of corporate disclosures, Journal of Accounting Research, 31(2), 246, https://doi.org/10.2307/2491273.

9. Malone, D., Fries, C., and Jones, T. (1993), An empirical investigation of the extent of corporate financial disclosure in the oil and gas industry, Journal of Accounting, Auditing & Finance, 8(3), 249-273, https://doi.org/10.1177/0148558x9300800306.

10. Mangena, M., and Pike, R. (2005), The effect of audit committee shareholding, financial expertise and size on interim financial disclosures, Accounting and Business Research, 35(4), 327-349, https://doi.org/10.1080/00014788.2005.9729998.

11. Moral-Muñoz JA, Viedma EH, Espejo ALS, Cobo MJ (2020), Software tools for conducting bibliometric analysis in science: an up-to-date review, El Profesional De La Información, 29(1), https://doi.org/10.3145/epi.2020.ene.03.

12. Mongeon, P., and Paul-Hus, A. (2016), The journal coverage of Web of Science and Scopus: a comparative analysis, Scientometrics, 106, 213-228, https://doi. org/10.1007/s11192-015-1765-5

13. Patton, J., and Zelenka, I. (1997). An empirical analysis of the determinants of the extent of disclosure in annual reports of joint stock companies in the Czech Republic, European Accounting Review, 6(4), 605-626, https://doi.org/10.1080/09638189700000003.

14. Vanstraelen, A., Zarzeski, M. T., and Robb, S. W. (2003), Corporate Nonfinancial disclosure practices and financial analyst forecast ability across three European countries, Journal of International Financial Management & Accounting, 14(3), 249-278, https://doi.org/10.1111/1467-646x.00098.

Ngày nhận bài: 05/01/2025; Ngày phản biện: 16/01/2025; Ngày duyệt đăng: 23/01/2025