Theo Luật sư Trương Thanh Đức, công ty chứng khoán được quyền vay vốn với tư cách là một doanh nghiệp. Tuy nhiên, Luật Chứng khoán 2019 quy định, công ty chứng khoán phải bảo đảm việc vay vốn với “Tỷ lệ tổng nợ trên vốn chủ sở hữu của công ty chứng khoán không được vượt quá 5 lần” (trước đó là không quá 3 lần).

Để rộng đường dư luận, bài viết xin giới thiệu quan điểm của Luật sư Trương Thanh Đức về vấn đề vay và cho vay của công ty chứng khoán.

Bộ Luật Dân sự (2015), Luật Đầu tư (2020) cho phép cá nhân, pháp nhân có quyền “nhận tiền gửi” dưới hình thức “vay vốn”

Khoản 2, Điều 8, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: Nghiêm cấm cá nhân, tổ chức không phải là tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động ngân hàng, trong đó có việc “nhận tiền gửi” (là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận) và “cấp tín dụng” (gồm cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác).

Theo điều luật trên thì chỉ tổ chức tín dụng mới được phép “nhận tiền gửi” và “cấp tín dụng”, đồng thời có loại trừ “giao dịch ký quỹ, giao dịch mua, bán lại chứng khoán của công ty chứng khoán”. Tuy nhiên, theo Luật sư Trương Thanh Đức, đây là một quy định không chính xác và không rõ ràng, nếu soi chiếu vào các văn bản pháp luật có giá trị tương đương.

Theo quy định pháp luật, không phải là tổ chức tín dụng, nhưng các chủ thể sau đây vẫn được phép huy động vốn nói chung và vay vốn nói riêng một cách hợp pháp:

Thứ nhất, cá nhân và pháp nhân, trong đó có công ty chứng khoán, có quyền “nhận tiền gửi” dưới hình thức “vay vốn” và một số hình thức khác theo quy định tại các điều từ điều 463 đến điều 471 của Bộ luật Dân sự năm 2015 về hợp đồng vay tiền và hợp đồng vay tài sản; khoản 14, điều 3, Luật Đầu tư năm 2020 về hợp tác kinh doanh;

Thứ hai, doanh nghiệp, trong đó có công ty chứng khoán, có quyền huy động vốn nói chung, vay tiền nói riêng theo quy định tại khoản 3, điều 7; điểm d, khoản 2 điều 55; điểm e, khoản 1, điều 76; khoản 4, điều 77; điểm h, khoản 2, điều 153; điểm b, khoản 3, điều 167; điểm e, khoản 3, điều 182, Luật Doanh nghiệp năm 2020.

Không có quy định nào cấm công ty chứng khoán vay vốn của nhà đầu tư, khách hàng

Pháp luật cho phép các công ty chứng khoán được quyền vay vốn với tư cách là một doanh nghiệp. Theo quy định của Luật Chứng khoán 2019, công ty chứng khoán phải bảo đảm việc vay vốn với “Tỷ lệ tổng nợ trên vốn chủ sở hữu của công ty chứng khoán không được vượt quá 5 lần” (khoản 8, điều 86 và khoản 1, điều 26 về “Hạn chế vay nợ”, Thông tư 121/2020/TT-BTC ngày 31-3-2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính “Quy định về hoạt động của công ty chứng khoán” (trước đó là không quá 3 lần).

Không có quy định nào cấm công ty chứng khoán vay vốn của khách hàng, nhà đầu tư hay cá nhân, pháp nhân nói chung để hoạt động kinh doanh. Tất nhiên, việc gửi tiền ăn lãi tại các công ty chứng khoán có phần rủi ro hơn gửi ngân hàng.

Công ty chứng khoán được phép “cấp tín dụng” với bốn loại “dịch vụ cho khách hàng vay tiền mua chứng khoán”, “dịch vụ cho vay chứng khoán”, “dịch vụ ứng trước tiền bán chứng khoán” và “cho khách hàng vay tiền mua chứng khoán dưới hình thức giao dịch ký quỹ” theo quy định tại điểm b, khoản 1 và khoản 4, điều 86, Luật Chứng khoán năm 2019.

Ngoài ra, với tư cách một doanh nghiệp, công ty chứng khoán còn có thể cho một số cá nhân và doanh nghiệp đối tác vay tiền trong trường hợp không liên quan đến chứng khoán vì Luật Chứng khoán không cấm (dù bị cấm cho vay “dưới mọi hình thức” khác theo khoản 1, điều 27, Thông tư 121).

Theo góc nhìn của Luật sư, việc các công ty chứng khoán huy động và cho vay vốn không quá giới hạn của pháp luật chứng khoán là không vi phạm pháp luật nói chung và quy định của Luật các tổ chức tín dụng nói riêng.

Tuy nhiên, người có tiền cần hiểu rõ sự khác biệt. Đó là, với việc gửi tiền cho ngân hàng, tiền lãi thu được không phải nộp thuế giá trị gia tăng. Nhưng việc cho vay hoặc hợp tác đầu tư với công ty chứng khoán sẽ không được bảo hiểm tiền gửi như việc gửi tiền tại các ngân hàng và tiền lãi thu được từ việc cho vay, đầu tư vốn tại công ty chứng khoán thì phải nộp thuế thu nhập cá nhân./.