Trần Hạnh Linh

Giảng viên bộ môn Luật Thương mại quốc tế, Khoa Luật, Đại học Thương mại

Tóm tắt

Bài viết trình bày các vấn đề lý luận và thực tiễn của việc bảo đảm quyền của nhóm yếu thế trong bối cảnh biến đổi khí hậu trên thế giới và ở Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường việc thực hiện quyền của nhóm người này ở Việt Nam trong giai đoạn bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu hiện nay.

Từ khóa: Biến đổi khí hậu, nhóm yếu thế, quyền của nhóm yếu thế

Summary

The article presents theoretical and practical issues of ensuring the rights of vulnerable groups in the context of climate change in the world and Vietnam, thereby proposing several solutions to enhance the implementation of the rights of this group of people in Vietnam in the current period affected by climate change.

Keywords: Climate change, vulnerable groups, rights of vulnerable groups

MỞ ĐẦU

Biến đổi khí hậu (BĐKH) không chỉ là một vấn đề môi trường, mà còn là một cuộc khủng hoảng nhân quyền, đặc biệt đối với các nhóm yếu thế trong xã hội. Khi nhiệt độ toàn cầu gia tăng, thiên tai ngày càng khắc nghiệt và nguồn tài nguyên dần cạn kiệt, những người nghèo, phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi và người khuyết tật trở thành những đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Sự bất bình đẳng trong khả năng thích ứng và tiếp cận các nguồn lực khiến họ dễ bị tổn thương trước các tác động của khí hậu, đặt ra thách thức lớn trong việc bảo đảm quyền sống, quyền được an sinh xã hội và phát triển bền vững.

Là một trong số các quốc gia dễ bị tổn thương nhất, Việt Nam cũng chịu những tác động vô cùng nặng nề của BĐKH. Trong bối cảnh đó, việc xác định rõ những khó khăn, thách thức trong việc bảo đảm quyền của các nhóm yếu thế, trên cơ sở đó tìm ra các giải pháp để bảo vệ quyền lợi của nhóm người này trước BĐKH là một yêu cầu cấp thiết.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CỦA NHÓM YẾU THẾ TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Có một liên hệ rất chặt chẽ và sâu sắc giữa BĐKH và việc thụ hưởng quyền con người của nhóm yếu thế. Mối đe dọa do BĐKH gây ra luôn có tính phân biệt đối xử, có tác động nặng nề hơn với các nhóm dân cư vốn đã trong tình trạng dễ bị tổn thương do các yếu tố, như: địa lý, đói nghèo, giới tính, tuổi tác, tình trạng dân tộc bản địa và thiểu số, và khuyết tật (IPCC, 2022).

Quyền được sống, được tiếp cận với nhà ở và hưởng mức sống thích đáng. BĐKH có những tác động hữu hình rõ ràng về việc được hưởng đầy đủ các quyền con người của nhóm dễ tổn thương, đặc biệt là những quyền đặc thù có liên quan. Những đối tượng người nghèo thường sống ở các khu vực dễ bị ảnh hưởng bởi lũ lụt, hạn hán, nước biển dâng, khiến nhà cửa bị phá hủy, mất kế sinh nhai. Người cao tuổi, người khuyết tật sẽ gặp khó khăn trong việc di tản hoặc thích ứng với các điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Các đối tượng người nhập cư cũng vướng phải những rào cản nhất định khi mà tác động của BĐKH ở các quốc gia tiếp nhận có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền của họ, trong đó có quyền được sống, được tiếp cận với nhà ở và hưởng mức sống thích đáng.

Quyền được hưởng môi trường sạch, trong lành và bền vững. Sự suy thoái môi trường, mất cân bằng sinh học, ô nhiễm không khí và đại dương đồng thời cũng thúc đẩy các quốc gia và các tổ chức quốc tế công nhận quyền được sống trong môi trường trong lành. Hội đồng Nhân quyền thừa nhận rằng, suy thoái môi trường, BĐKH và phát triển không bền vững là một trong những mối đe dọa cấp bách và nghiêm trọng nhất đối với khả năng được hưởng quyền con người của các thế hệ tương lai, bao gồm quyền được sống, đồng thời thừa nhận mối liên hệ trực tiếp giữa BĐKH và quyền được hưởng môi trường sạch, trong lành và bền vững.

Quyền tiếp cận thông tin cũng là một quyền quan trọng của nhóm người dễ tổn thương trong bối cảnh BĐKH, được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), theo đó, quyền này bao gồm “tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá mọi loại thông tin và các ý tưởng…”. Trong bối cảnh BĐKH và các vấn đề môi trường, quyền được tiếp cận thông tin được coi là rất quan trọng. Quyền này đòi hỏi các cơ quan chức năng của Nhà nước phải thu thập, cập nhật và truyền bá thông tin liên quan đến BĐKH và tất cả các rủi ro mà nó gây ra đối với con người và môi trường. Mặt khác, quyền này có thể có một số hạn chế từ các cơ quan chức năng quốc gia vì một số thông tin liên quan đến BĐKH có thể không được chia sẻ để phục vụ mục đích chính đáng cần thiết.

Quyền được chăm sóc sức khỏe nhiều lần được Hội đồng Nhân quyền và Ủy ban liên chính phủ về BĐKH công nhận phải đối mặt với các tác động của BĐKH. Sức khỏe con người nhạy cảm với những thay đổi khác nhau của các dạng thời tiết và khí hậu, như: sự thay đổi nhiệt độ, lượng mưa, các đợt nắng nóng, lũ lụt, hạn hán và hỏa hoạn… Đặc biệt, các nước thu nhập thấp và các nhóm dễ bị tổn thương, như: phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi và nhóm dân tộc thiểu số phải hứng chịu thiệt hại lớn nhất về sức khỏe trong bối cảnh này (IPCC, 2022).

Quyền đối với giáo dục cũng là một trong những quyền có thể bị cản trở, trực tiếp hoặc gián tiếp, do BĐKH. Những hiện tượng liên quan đến thời tiết ảnh hưởng đến quyền được giáo dục vì chúng dẫn đến tình trạng trẻ em phải nghỉ và thôi học. Đặc biệt, đối với trẻ em gái, việc tạm dừng đi học sớm cũng làm tăng tính dễ bị tổn thương khi mang thai sớm, tăng khả năng dễ bị bạo lực trên cơ sở giới và kém độc lập về kinh tế (UNDP, 2022).

Quyền có việc làm của nhóm yếu thế cũng chịu tác động nặng nề từ BĐKH. Người dân sống ở các khu vực địa lý dễ bị tổn thương (chủ yếu là các vùng nông thôn) trước BĐKH phải chịu cảnh mất đi các cơ hội việc làm vì nghề nghiệp chính của họ, thường là trồng trọt và chăn nuôi gia súc. Điều này ảnh hưởng đến sinh kế của các hộ gia đình và thương cũng ảnh hưởng đến cuộc sống tinh thần và vật chất của họ (UNDP, 2022).

Ngoài ra, còn một số quyền của nhóm yếu thế cũng chịu sự tác động của BĐKH, bao gồm: quyền có nhà ở, quyền đối với thực phẩm, quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa…

THÁCH THỨC BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NHÓM YẾU THẾ Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Thứ nhất là vấn đề năng lực nhận thức, năng lực cộng đồng. Trong bối cảnh BĐKH, việc không được bảo đảm những quyền đặc thù, như quyền được sống, quyền sống trong môi trường trong lành, hay những hạn chế trong việc tiếp cận tới các chính sách an sinh xã hội của nhóm yếu thế xuất phát từ tâm lí tự ti, khép kín, không có hoặc có ít “tiếng nói” trong xã hội của họ. Những đối tượng yếu thế, như: người nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật có xu hướng sống phụ thuộc vào môi trường tự nhiên cũng như các chính sách hỗ trợ định kỳ của Nhà nước, mà ít có xu hướng sẵn sàng thay đổi và thích nghi với những tác động khách quan do BĐKH mang lại.

Thứ hai, những yếu tố cố hữu về lịch sử, tự nhiên, bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam khiến số lượng người yếu thế, dễ bị tổn thương có xu hướng ngày càng tăng, gây áp lực lớn cho ngân sách Nhà nước trong việc bảo đảm an sinh xã hội và phát triển bền vững. Việt Nam thuộc nhóm nước Đông Nam Á chịu tác động mạnh của BĐKH, như: mưa bão, lũ lụt thường xuyên, nước biển dâng…, được xếp vào nhóm các quốc gia dễ bị tổn thương bởi những tác động tiêu cực của BĐKH. Điều này đặt ra gánh nặng về chi phí cho công tác phòng ngừa, ứng phó và khắc phục những hậu quả của BĐKH, bảo đảm nguồn lợi sinh kế bền vững cho cộng đồng - đặc biệt là nhóm người yếu thế. Đồng thời, xu hướng già hóa dân số nhanh hơn dự kiến cũng đặt ra những thách thức về chi phí liên quan đến chăm sóc sức khỏe người cao tuổi và chính sách an sinh xã hội.

Thứ ba, hệ thống an sinh xã hội nhằm bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương còn nhiều hạn chế. Hệ thống an sinh xã hội nói chung ở Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập, khiến các chủ thể thuộc nhóm yếu thế có điều kiện giới hạn về kinh tế, trình độ dân trí và năng lực chuyên môn khó có cơ hội được tiếp cận đầy đủ. Khi BĐKH gia tăng, sự phụ thuộc của họ vào các chính sách hỗ trợ của Nhà nước càng lớn. Điều này không chỉ là gánh nặng cho ngân sách nhà nước, mà còn là rào cản đối với chính các chủ thể thuộc nhóm yếu thế trong việc được đảm bảo các quyền đặc thù, như: quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền được giáo dục, quyền tiếp cận với thông tin.

Thứ tư là những hạn chế về chính sách, pháp luật. Hiện nay, ngoài những quy định chung mang tính nguyên tắc trong Hiến pháp, Luật Bảo vệ môi trường hiện hành, các quy định còn lại liên quan đến vấn đề ứng phó với BĐKH vẫn đang được “lồng ghép” rải rác và mờ nhạt trong các đạo luật khác... Đồng thời, các văn bản dưới luật hướng dẫn cho vấn đề này chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc định hướng, hoạch định chính sách. Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn chưa thiết lập một cơ quan hay tổ chức riêng chuyên biệt về quyền con người để nghiên cứu, hoạch định các chính sách có tính khả thi hay giải quyết các vụ việc liên quan đến quyền con người nói chung và quyền của nhóm dễ tổn thương trước bối cảnh BĐKH nói riêng.

KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NHÓM YẾU THẾ TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Campuchia. Kể từ năm 2019, Campuchia đã triển khai dự án nhằm tăng cường khả năng chống chịu của hệ thống y tế trước các rủi ro liên quan đến khí hậu, bao gồm: cải thiện hệ thống cảnh báo sớm và giám sát dịch bệnh nhạy cảm với khí hậu.

Philippines là quốc gia thường xuyên hứng chịu bão lớn, đã ban hành Luật BĐKH, quy định rõ ràng trách nhiệm của chính phủ trong việc bảo vệ nhóm yếu thế khỏi tác động tiêu cực của khí hậu, đồng thời thành lập Quỹ BĐKH Quốc gia để hỗ trợ người nghèo và các nhóm dễ tổn thương thích ứng với thiên tai. Phillipines đã phát triển mô hình Ecotown tại San Vicente, Palawan, kết hợp bảo vệ hệ sinh thái với phát triển kinh tế địa phương. Các biện pháp bao gồm: trồng rừng ngập mặn, sử dụng giống cây chịu hạn và lũ và phát triển cơ sở hạ tầng xanh để tăng cường khả năng chống chịu của cộng đồng. Philippines cũng áp dụng chương trình International và Save the Children nhằm thực hiện các đánh giá tham gia với trẻ em và cộng đồng, để xác định rủi ro khí hậu và phát triển các biện pháp thích ứng.

Bangladesh cũng là một quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi BĐKH, đặc biệt là lũ lụt và nước biển dâng. Bangladesh đã ban hành Chính sách Bảo vệ Xã hội Thích ứng với BĐKH, trong đó ưu tiên hỗ trợ người nghèo, phụ nữ, người khuyết tật và người dân tộc thiểu số; thành lập các nhóm phụ nữ dẫn dắt cộng đồng trong các kế hoạch phòng chống thiên tai, giúp họ có tiếng nói.

Ngoài ra, đối với các nước phát triển, Chính phủ các quốc gia này cũng tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, ví dụ Hà Lan triển khai Chương trình Đồng bằng Quốc gia (Delta Program) để bảo vệ cộng đồng dễ bị tổn thương khỏi lũ lụt, áp dụng mô hình “thành phố bọt biển”, thiết kế hệ thống thoát nước thông minh để hạn chế tác động của lũ lụt, hay Úc triển khai chương trình “Indigenous Rangers” nhằm hỗ trợ người bản địa thích ứng với BĐKH.

Ngay tại Việt Nam, một số địa phương đã thực hành rất tốt công tác đối phó với BĐKH, như dự án Thích ứng với BĐKH dựa vào cộng đồng tại tỉnh Thừa Thiên Huế đã áp dụng các giải pháp nông nghiệp bền vững, như: trồng hành chịu hạn, sử dụng giống lúa chịu mặn và áp dụng công nghệ để giảm thiểu tác động của lũ lụt và hạn hán. Đây là phương pháp thích ứng dựa vào cộng đồng mà Thừa Thiên Huế đã áp dụng thành công và các địa phương khác có thể học hỏi.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ THỰC THI QUYỀN CỦA NHÓM YẾU THẾ TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Nhằm tằng cường thực thi quyền của nhóm yếu thế trong bối cảnh thích ứng với BĐKH, tác giả đề xuất một số giải pháp như sau.

Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân về quyền con người nói chung và quyền của nhóm yếu thế trong bối cảnh BĐKH nói riêng, để mọi người hiểu rõ về quyền con người, coi trọng quyền con người nói chung và xóa bỏ sự kì thị, phân biệt đối xử với nhóm yếu thế trong xã hội, có năng lực chịu trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người. Nhà nước cần phải chú trọng vào việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về quyền con người nói chung và quyền được sống trong môi trường trong lành nói riêng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt trong một số ngành, lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến việc thực thi quyền con người; khẩn trương đưa nội dung quyền con người nói chung, quyền được sống trong môi trường trong lành nói riêng vào chương trình giảng dạy trong các trường đại học trên cả nước.

Thứ hai, Đảng và Nhà nước cần tiến tới xây dựng và tổ chức thực thi có hiệu quả hệ thống an sinh xã hội đối với nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong bối cảnh BĐKH ở Việt Nam hiện nay. Tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản là vấn đề đặc biệt quan trọng trong chính sách an sinh xã hội, nhằm hướng đến mục tiêu công bằng xã hội, bảo đảm quyền của nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Đồng thời, cần kiên quyết và nhanh chóng loại bỏ những rào cản liên quan đến các thủ tục hành chính, để các nhóm yếu thế, như: người di cư, người nghèo, người nhận trợ giúp xã hội có thể dễ dàng tiếp cận các dịch vụ cơ bản một cách công bằng, hiệu quả. Tuy nhiên, trong điều kiện là một quốc gia đang phát triển, với những rào cản nhất định đến từ những yếu tố lịch sử, tự nhiên, kinh tế-xã hội như đã phân tích ở trên, cần thiết phải cân nhắc và quyết định sáng suốt về mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và yêu cầu về bảo đảm an sinh xã hội cho cộng đồng, trong đó có nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương. Việc bảo đảm an sinh xã hội đối với nhóm chủ thể này sẽ góp phần khắc phục triệt để những tàn dư của chế độ phân phối theo kiểu bao cấp, bình quân, cào bằng như sai lầm của thời kỳ trước đổi mới. Tuy nhiên, cũng không thể dồn phần lớn của cải làm ra để thực hiện an sinh xã hội dành cho nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương vượt quá khả năng mà các nguồn lực vật chất và nguồn lực con người của đất nước có thể cho phép. Do đó, cần cân nhắc và lựa chọn, quyết định giữa mục tiêu phát triển kinh tế xã hội với các chính sách về bảo đảm an sinh xã hội đối với nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương một cách thận trọng, sáng suốt để những yêu cầu này không trở thành rào cản, mà là động lực để xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, cần khẩn trương nghiên cứu, xây dựng và ban hành một đạo luật riêng về BĐKH, thay vì lồng ghép các quy định liên quan đến vấn đề BĐKH trong nhiều văn bản luật khác nhau như hiện nay. Đạo luật này không chỉ góp phần tạo dựng một khung pháp lý toàn diện, nhất quán và hiệu quả trong công tác ứng phó với BĐKH ở nước ta, mà còn là bệ phóng vững chắc để triển khai hiệu quả các cam kết quốc tế về môi trường, BĐKH mà Việt Nam là thành viên. Xa hơn, sự hiện diện của đạo luật này cho phép chúng ta có thể kỳ vọng vào việc cải thiện sự thụ hưởng quyền con người của những chủ thể bị ảnh hưởng bởi BĐKH ở Việt Nam. Lẽ dĩ nhiên, đạo luật nói trên cần được xây dựng trên cơ sở tham khảo, học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia đã ban hành Luật BĐKH nhằm đảm bảo tính khả thi và hiệu quả.

Đồng thời cũng cần thành lập cơ quan quốc gia về quyền con người, theo đó, cơ quan này có nhiệm vụ chuyên trách trong việc giải quyết các vụ việc liên quan đến quyền con người nói chung và quyền của nhóm yếu thế trước bối cảnh BĐKH nói riêng. Đây sẽ là cột mốc lớn, góp phần khẳng định vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế với những cam kết, nỗ lực bảo đảm quyền con người, đặc biệt trong khung cảnh Việt Nam đang là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kì 2023-2025.

Thứ tư, cần học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới về vấn đề bảo đảm quyền của nhóm yếu thế trong bối cảnh BĐKH, trên cả phương diện hoạch định chính sách, pháp luật lẫn thực thi quyền của nhóm người này trong thực tiễn, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển đã và đang thành công trong lĩnh vực này./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Cục Thống kê (2024). Xu hướng già hóa dân số nhanh ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp, truy cập từ https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2025/01/xu-huong-gia-hoa-dan-so-nhanh-o-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap/.

2. IPCC (2022). Biến đổi khí hậu 2022. Tác động, thích ứng và tính dễ bị tổn thương. Tóm tắt cho các nhà hoạch định chính sách.

3. Ngân Anh (2025). Công tác xã hội tích cực hỗ trợ đối tượng yếu thế dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu, truy cập từ https://nhandan.vn/cong-tac-xa-hoi-tich-cuc-ho-tro-doi-tuong-yeu-the-de-bi-ton-thuong-do-bien-doi-khi-hau-post778178.html?utm_source=chatgpt.com.

4. Nguyễn Văn Trường (2024). Thực thi quyền được sống trong môi trường trong lành trước tác động của biến đổi khí hậu ở Việt Nam, Tạp chí Pháp luật về quyền con người, số 36.

5. Phan Thị Lan Hương (2020). Bảo đảm quyền của nhóm yếu thế - Khoảng trống pháp lý và khuyến nghị cho Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.

6. UNDP (2022). Human Rights and Climate Change.

Ngày nhận bài: 10/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 21/5/2025; Ngày duyệt đăng: 27/05/2025