PGS, TS. Nguyễn Xuân Nhĩ

Trường Đại học Nguyễn Tất Thành

Nguyễn Tuấn Anh

Học viên cao học Trường Đại học Nguyễn Tất Thành

Tóm tắt

Nghiên cứu nhằm khám phá các nhân tố ảnh hưởng đến ý định chọn trường của sinh viên tiềm năng tại các trường cao đẳng nghề tại TP. Hồ Chí Minh. Kết quả từ nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ giữa các khía cạnh Chất lượng kỹ thuật; Chất lượng hình ảnh doanh nghiệp; Chất lượng chức năng đến Ý định chọn trường của sinh viên thông qua Chất lượng dịch vụ cảm nhận theo góc nhìn của 403 sinh viên của 6 trường cao đẳng nghề tại TP. Hồ Chí Minh. Trong các nhân tố ảnh hưởng đến Ý định chọn trường của sinh viên tiềm năng, thì sinh viên quan tâm trước hết là Cảm nhận về chất lượng dịch vụ của cơ sở đào tạo, kế đến là Chương trình đào tạo của trường và cuối cùng là Cung cấp thông tin đầy đủ và chất lượng đến người học.

Từ khóa: chất lượng dịch vụ cảm nhận, ý định chọn, trường cao đẳng nghề, TP. Hồ Chí Minh

ĐẶT VẤN ĐỀ

Giáo dục luôn là mối quan tâm của nhiều quốc gia. Theo số liệu thống kê về giáo dục trên thế giới, số lượng người tiếp cận giáo dục và đào tạo, đặc biệt từ 15 đến 24 tuổi khá ổn định kể từ năm 2010. Đối với nhóm có nhu cầu đào tạo ở bậc đại học và cao đẳng tại khu vực châu Âu, Bắc Mỹ, và Đông Nam Á chiếm tỷ lệ cao, khoảng 75% theo thống kê năm 2021. Đối với nhóm giáo dục và đào tạo nghề, tỷ lệ ghi danh trên toàn cầu chỉ chiếm dưới 20% và có mức độ dao động lên xuống xoay quanh mức 10% hằng năm kể từ 2010. Điều này cho thấy, đối với nhóm giáo dục và đào tạo nghề, người học đang có những khó khăn về khả năng tiếp cận và cơ hội học tập (World Education Statistics, 2024)

Theo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội TP. Hồ Chí Minh, hiện có 380 cơ sở dạy nghề trên toàn Thành phố. Trong đó, hiện có 62 trường cao đẳng. Mức tuyển sinh ở phân khúc nghề sau 7 tháng đầu năm 2024 hiện chiếm 42,58%, tăng 12% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên tỷ trọng lớn thiên về nhóm đào tạo nghề sơ cấp và ngắn hạn dưới 3 tháng. Trong khi đó, nhóm trung cấp và cao đẳng nghề chỉ chiếm tỷ lệ thấp, vào khoảng 11,56%, nguyên nhân được cho là do việc tuyển sinh chưa hiệu quả, các trường cao đẳng nghề chưa thu hút được học viên tiềm năng.

Trước những thách thức trong công tác tuyển sinh, các trường cao đẳng nghề cần phải nghiên cứu để tìm ra các nhân tố tác động đến ý định chọn trường cao đẳng nghề của các sinh viên tiềm năng. Nghiên cứu sẽ cung cấp và gợi ý cho ban quản trị đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm cải thiện sức hút đối với sinh viên tiềm năng nhiều hơn. Đồng thời, đóng góp mở rộng về cách thức cải thiện khả năng tiếp cận và tăng cơ hội học tập cho sinh viên tiềm năng ở phân khúc giáo dục và đào tạo nghề tại TP. Hồ Chí Minh.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý thuyết

Theo lý thuyết hành động hợp lý (TRA) được phát triển bởi Ajzen và cộng sự (1977), ý định chọn lựa cơ sở giáo dục và đào tạo sẽ bị chi phối bởi yếu tố đánh giá tích cực hoặc tiêu cực của sinh viên tiềm năng lên hành vi chọn trường của mình. Nói cách khác, yếu tố này phản ánh đánh giá hoặc phán đoán chung của sinh viên về việc ủng hộ hay phản đối trong việc chọn trường nào đó để theo học. Sinh viên sẽ sử dụng các phương tiện đánh giá khác nhau, từ đó hình thành nên thái độ của mình với hành vi chọn một trường cụ thể để theo học.

Trong quá trình ra quyết định, sinh viên phải trải qua 5 bước bao gồm: nhu cầu tham gia đào tạo tại cơ sở giáo dục đại học/cao đẳng, tìm kiếm thông tin, thu thập thông tin, nộp đơn và ghi danh (Hanson và cộng sự, 1982). Nhằm hỗ trợ sinh viên tiềm năng trong quá trình đánh giá hoặc thẩm định tổng thể về việc có nên chọn cơ sở đào tạo nào đó hay không, thì việc gửi đến sinh viên các tín hiệu hoặc thông tin phù hợp là điều hết sức quan trọng đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo. Sinh viên cần được hỗ trợ nhằm giải quyết vấn đề về thiếu hụt thông tin trong quá trình hình thành ý định và từ đó đưa ra quyết định của mình. Việc sử dụng lý thuyết tín hiệu sẽ giúp ban quản lý thực sự có thể giảm thiểu tình trạng thiếu thông tin cho sinh viên tiềm năng của mình. Ngoài ra, thuyết tín hiệu còn giúp giải thích cách người nhận hình thành nhận thức của họ về một hành vi hoặc đối tượng nào đó cụ thể (Connelly và cộng sự, 2011). Đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo, thì việc gửi các tín hiệu liên quan đến chất lượng dịch vụ từ đó giúp sinh viên tiềm năng cảm nhận được trong quá trình tìm kiếm và cân nhắc cơ sở giáo dục đào tạo phù hợp với mình. Theo mô hình chất lượng dịch vụ phát triển bởi Gronroos (1984), tất cả các mục liên quan đến việc tương tác giữa người cung cấp và sử dụng dịch vụ. Và, để tăng chất lượng dịch vụ cảm nhận, thì các cơ sở giáo dục cần tập trung vào 3 khía cạnh cụ thể là: Cái gì hoặc Chất lượng kỹ thuật; Làm thế nào hoặc Chất lượng chức năng; và Hình ảnh của doanh nghiệp hoặc Chất lượng hình ảnh doanh nghiệp (Gronroos, 1990).

Ý định lựa chọn trường của sinh viên

Ý định lựa chọn đóng vai trò trung gian giữa mối quan hệ thái độ và hành vi. Ý định là nhân tốt có tác dụng tham chiếu và diều hướng đến hành vi (Fishbein và cộng sự, 1975). Trong quá trình tìm hiểu về cơ sở giáo dục và đào tạo, sinh viên sẽ phải trải qua 5 bước: có nguyện vọng hoặc nhu cầu theo học tại một cơ sở giáo dục đại học/cao đẳng, tìm kiếm thông tin, thu thập thông tin, nộp đơn và ghi danh (Hanson và cộng sự, 1982). Sinh viên sẽ xem xét thái độ của mình đối với từng cơ sở giáo dục đào tạo và sau đó hình thành nên ý định cho mình (Sheppard và cộng sự, 1988).

Chất lượng cảm nhận dịch vụ

Gronroos (1984) chỉ ra rằng, chất lượng dịch vụ bao gồm 3 nhân tố: (1) Chất lượng kỹ thuật từ kết quả cung cấp dịch vụ; (2) Chất lượng chức năng của quá trình cung cấp và (3) Hình ảnh doanh nghiệp. Tương tự, Lehtinen (1982) cho rằng, chất lượng dịch vụ phải được đánh giá trên 3 khía cạnh: (1) Sự tương tác; (2) Yếu tố vật chất và (3) Yếu tố doanh nghiệp. Rất nhiều nghiên cứu khác cũng đưa ra những thành phần của chất lượng dịch vụ, trong nghiên cứu này sử dụng khái niệm của Parasuraman và cộng sự (1985) với mô hình SERVQUAL, đã đưa ra một cái nhìn tổng thể về chất lượng dịch vụ được cảm nhận và đánh giá bởi khách hàng dựa trên 10 thành phần chính.

Hoạt động ngoài chuyên môn

Hoạt động ngoài chuyên môn bao gồm các tương tác giữa nhân viên và khách hàng, thông qua đó khách hàng có thể xây dựng lòng tin của họ đối với nhân viên thông qua thái độ, hành vi và chuyên môn của người nhân viên (Brady và cộng sự, 2001). Theo Annamdevula và cộng sự (2012), hoạt động ngoài chuyên môn liên quan đến các dịch vụ giúp sinh viên hoàn thành nghĩa vụ học tập thông qua sự hỗ trợ của đội ngũ nhân viên hành chính của cơ sở giáo dục và đào tạo.

Hoạt động chuyên môn

Các hoạt động chuyên môn được thực thi bởi đội ngũ giảng viên. Bên cạnh các hoạt đojng ngoài chuyên môn, thì các hoạt động chuyên môn được xác định cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng (Abdullah, 2006b). Các hoạt động chuyên môn phản ánh mức độ tốt hoặc chưa tốt của đội ngũ giảng viên trong quá trình thực hiện các hoạt động giảng dạy; và mức độ hiệu quả tương tác giữa sinh viên và đội ngũ giảng viên (Annamdevula và cộng sự, 2012).

Danh tiếng

Danh tiếng cho thấy hình ảnh chuyên nghiệp của cơ sở giáo dục và đào tạo đối với sinh viên (Abdullah, 2006b). Bất kỳ một cơ sở giáo dục và đào tạo nào có được hình ảnh tốt thì sẽ có khả năng thu hút nhiều sinh viên tiềm năng cân nhắc và tham gia đăng ký. Danh tiếng có vai trò đóng góp hình thành nên nhận thức của sinh viên về cơ sở giáo dục và đạo tạo trước khi lựa chọn theo học.

Chương trình đào tạo

Chương trình đào tạo đề cập đến tất cả các đặc điểm và thuộc tính liên quan đến nội dung và cấu trúc, như: đa dạng chương trình đào tạo, yêu cầu đầu vào hợp lý, chương trình có nội dung đào tạo chuyên môn tốt, chương trình đào tạo uy tín (Joseph và cộng sự, 1998). Các cơ sở giáo dục và đào tạo được kỳ vọng sẽ cung cấp nhiều chương trình uy tín với đa dạng chuyên ngành đào tạo cùng với kế hoạch học tập linh hoạt dành cho sinh viên (Abdullah, 2006b).

Cung cấp thông tin

Cung cấp thông tin liên quan đến các khoản tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho tương tác giữa sinh viên và cơ sở giáo dục bao gồm: liên lạc dễ dàng, quy trình đơn giản không quan liêu. Ngoài ra, những nỗ lực của cơ sở giáo dục và đào tạo trong công tác cung cấp và truyền thông thông tin chính xác đến học viên là vô cùng quan trọng; qua đó, góp phần để lại ẩn tượng về cơ sở giáo dục trong mắt sinh viên (Tuan và cộng sự, 2023).

Tổng quan nghiên cứu

Lựa chọn trường của sinh viên được xem là một nhiệm vụ phức tạp (Brigss và cộng sự, 2007). Dựa trên các nghiên cứu liên quan trong và ngoài nước, tác giả nhận thấu có nhiều cách tiếp cận để nghiên cứu đến ý định lựa chọn trường của sinh viên. Từ các nghiên cứu có liên quan nhất, tác giả đã rút ra những phát hiện thích hợp để hỗ trợ nghiên cứu. Theo Joseph và cộng sự (1998) và Joseph và cộng sự (2000), việc chọn lựa trường của sinh viên có thể bị ảnh hưởng bởi những tác nhân bên ngoài, như: Những người quan trọng xung quanh có ảnh hưởng đến sinh viên, Đặc điểm của trường và Nỗ lực truyền thông của trường (Chapman, 1981). Trong đó, có thể hiện mối quan tâm đến chất lượng sản phẩm như nhân tố chính trong việc lựa chọn trường của sinh viên (Chapman, 1979). Puan Rachmadhani và cộng sự (2018) và Lê (2020) cho rằng, việc lựa chọn trường của sinh viên bị ảnh hưởng bởi Chất lượng dịch vụ. Ngoài ra, ý định lựa chọn trường của sinh viên được giải thích rõ ràng bởi yếu tố Thái độ đối với hành vi, Chuẩn chủ quan và Nhận thức kiểm soát hành vi (Ajzen 1985, 1991).

Mô hình nghiên cứu và giả thuyết

Dựa trên các nghiên cứu và lý thuyết có liên quan, nhóm tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu như Hình.

Hình: Mô hình nghiên cứu

Giải pháp cải thiện về chất lượng dịch vụ cảm nhận nhằm tăng quyết định chọn của sinh viên tại Trường Cao đẳng Việt Mỹ

Nguồn: Nhóm tác giả đề xuất

Hiện nay, sinh viên tại Việt Nam có nhiều lựa chọn trong quá trình tìm kiếm cơ sở giáo dục và đào tạo phù hợp với mình. Để cải thiện chất lượng dịch vụ và làm hài lòng những sinh viên tiềm năng, thì hiện có nhiều nhân tố đã được nghiên cứu và minh chứng có liên quan đến cảm nhận của sinh viên về chất lượng dịch vụ của cơ sở giáo dục và đào tạo (Vrana và cộng sự, 2015). Chất lượng dịch vụ được cảm nhận thông qua 3 khía cạnh cụ thể bao gồm: Chất lượng kỹ thuật, Chất lượng chức năng và Chất lượng hình ảnh doanh nghiệp (Groonros, 1984; Zaibaf và cộng sự, 2013). Các khía cạnh này sẽ được đo lường bằng các thang đo đã sửa đổi của HEdPERF (Abdullaj, 2006a, 2006b; Vrana và cộng sự, 2015) bao gồm: Danh tiếng thuộc về khía cạnh chất lượng hình ảnh doanh nghiệp; Các hoạt động chuyên môn, ngoài chuyên môn và cung cấp thông tin thuộc về chất lượng chức năng; và Chương trình đào tạo thuộc về khía cạnh chất lược kỹ thuật. Từ đó, các giả thuyết được đề ra như sau:

H1b: Chương trình đào tạo có tác động tích cực đến Chất lượng cảm nhận dịch vụ.

H2: Danh tiếng có tác động tích cực đến Chất lượng cảm nhận dịch vụ.

H3: Hoạt động ngoài chuyên môn có tác động tích cực đến Chất lượng cảm nhận dịch vụ.

H4: Hoạt động chuyên môn có tác động tích cực đến Chất lượng cảm nhận dịch vụ.

H5b: Cung cấp thông tin có tác động tích cực đến Chất lượng cảm nhận dịch vụ.

Theo Parasuraman và cộng sự (1988), mức độ nhận thức của sinh viên về chất lượng dịch vụ càng cao, thì sinh viên càng cảm thấy tự tin hơn về một cơ sở giáo dục và đào tạo. Vì vậy, Chất lượng dịch vụ cảm nhận được coi là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của sinh viên. Ngoài ra, Chất lượng dịch vụ cảm nhận có thể được coi là chuẩn mức để sinh viên đưa ra quyết định, vì nó giúp phản ánh mức độ hiệu quả của các cơ sở cung cấp dịch vụ giáo dục và đào tạo (Tijang và cộng sự, 2017). Một khi sinh viên cảm nhận tích cực về chất lượng dịch vụ của một cơ sở giáo dục và đào tạo, thì sẽ có khả năng ảnh hưởng đến ý định chọn cơ sở giáo dục đó của sinh viên (Sheppard và cộng sự 1988; Ramayah và cộng sự, 2003). Do đó, giả thuyết đưa ra như sau:

H6: Chất lượng cảm nhận dịch vụ có tác động tích cực đến Ý định chọn lựa trường của sinh viên.

Ngoài ra, sinh viên có ý định lựa chọn cơ sở giáo duc và đào tạo khi nơi đó có thể cung cấp các chương trình đào tạo mà sinh viên mong muốn (Chapman, 1981). Sinh viên rất chú ý đến việc các cơ sở giáo dục và đào tạo có hay không chương trình mà sinh viên mong muốn theo học. Sinh viên sẵn sàng chi trả và chịu chi phí cao để học chương trình mà họ mong muốn (Yusof và cộng sự, 2008). Hơn nữa, trong quá trình tìm kiếm trường, sinh viên sẽ dựa trên nhu cầu và sở thích của mình để tìm kiếm nơi phù hợp, nơi có thể giúp sinh viên tạo ra thành công cho mình (Hussin và cộng sự, 2019). Bên cạnh đó, sinh viên được coi là người tự ra quyết đinh khi đưa ra lựa chọn cơ sở giáo dục và đào tạo cho mình. Do đó, thông tin cung cấp từ các cơ sở giáo dục và đào tạo sẽ hỗ trợ cho sinh viên trong việc hình thành ý định lựa chọn trường. Toàn bộ quá trình chọn là một công tác phức tạp và có thể bị chi phối bởi các yếu tố xung quanh sinh viên. Trong quá trình tìm kiếm, sinh viên có khả năng đưa ra lựa chọn sai lầm vì thiếu thông tin (Briggs và cộng sự, 2007). Do đó, việc tiếp cận thông tin có sẵn và chất lượng có thể hỗ trợ và thúc đẩy đáng kể ý định lựa chọn trường của sinh viên (Briggs và cộng sự, 2007, Mbawuni và cộng sự, 2015; Tuấn và cộng sự, 2023). Từ đó, tác giả đưa ra các giả thuyết:

H1a: Chương trình đào tạo có tác động tích cực đến Ý định chọn lựa trường của sinh viên.

H5a: Cung cấp thông tin tác động tích cực đến Ý định chọn lựa trường của sinh viên.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng dữ liệu sơ cấp thông qua trực tiếp gửi phiếu khảo sát đến 450 là các sinh viên tiềm năng của các trường cao đẳng nghề. Kết quả thu được 403 phiếu hợp lệ. Dữ liệu thu thập và xử lý bằng phần mềm SPSS và AMOS. Khảo sát được thực từ tháng 10/2024 đến tháng 11/2024 (Bài viết sử dụng cách viết số thập phân theo chuẩn quốc tế).

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Kiểm định độ tin cậy thang đo

Qua kiểm định độ tin cậy của thang đo sơ bộ cho thấy, 30 biến quan sát thuộc 7 khái niệm đều đạt yêu cầu. Các biến quan sát trong mô hình nghiên cứu đều có giá trị Cronbach’s Alpha tốt, thấp nhất là 0.807 và cao nhất là 0.939. Vì vậy, có thể cho rằng, nội dung thang đo của các khái niệm tốt, đáng tin cậy để sử dụng cho nghiên cứu. 30 biến quan sát sẽ được đưa vào phân tích nhân tố khám phá (EFA) để tìm ra các biến quan sát không phù hợp và kiểm định lại thang đo một lần nữa một cách chi tiết hơn.

Bảng 1: Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo

Biến quan sát

Trung bình thang đo nếu loại biến

Phương sai thang đo nếu loại biến

Tương quan biến tổng

Giá trị Cronbach Alpha mới khi biến bị loại

Ý định chọn trường của sinh viên tiềm năng, Cronbach’s Alpha = 0.884

CI1

5.75

7.467

.790

.821

CI2

5.98

8.156

.795

.819

CI3

6.02

8.039

.740

.864

Chất lượng cảm nhận dịch vụ, Cronbach’s Alpha = 0.807

PSQ1

5.88

6.516

.701

.687

PSQ2

6.02

6.733

.655

.736

PSQ3

6.12

7.184

.610

.780

Hoạt động chuyên môn, Cronbach’s Alpha = 0.882

AS1

4.48

3.753

.852

.762

AS2

4.55

3.795

.744

.859

AS3

4.63

4.025

.724

.875

Hoạt động ngoài chuyên môn, Cronbach’s Alpha = 0.939

SS1

13.93

30.231

.779

.932

SS2

13.86

28.228

.886

.921

SS3

13.64

28.699

.786

.932

SS4

13.76

28.676

.851

.923

SS5

13.82

30.096

.825

.927

SS6

13.75

29.255

.805

.929

Danh tiếng, Cronbach’s Alpha = 0.902

IR1

8.13

8.965

.820

.859

IR2

8.01

9.370

.718

.895

IR3

8.13

9.000

.852

.848

IR4

7.97

9,206

.736

.889

Cung cấp thông tin, Cronbach’s Alpha = 0.934

IA1

10.45

16.656

.752

.932

IA2

10.24

15.519

.870

.910

IA3

10.41

16.572

.850

.915

IA4

10.52

16.618

.827

.919

IA5

10.32

15.736

.832

.918

Chương trình đào tạo, Cronbach’s Alpha = 0.911

PI1

14.12

29.179

.802

.888

PI2

14.03

29.001

.750

.895

PI3

14.09

32.522

.499

.929

PI4

14.14

28.994

.812

.887

PI5

14.03

27.589

.846

.881

PI6

14.02

28.191

.818

.885

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả

Kết quả phân tích EFA

Khi phân tích EFA, số nhân tố trích được là 7 nhân tố, tương ứng với 7 khái niệm nghiên cứu trong mô hình. Trong đó, 30 biến quan sát được đưa vào phân tích EFA, kết quả cho thấy, 1 biến quan sát có hệ số tải nhân tố đo lường không đạt yêu cầu (Bảng 2). Vì vậy, tổng số biến quan sát đạt yêu cầu là 29, sẽ được đưa vào phân tích CFA để kiểm chứng lại các giá trị của thang đo.

Tham số

Kết quả chạy EFA lần 1

Kết quả chạy EFA lần 2

Ngưỡng chấp nhận

KMO

0.892

0.889

> 0.5

Hệ số Eigenvalues

1.337

1.332

> 1

Giá trị sig của Barlett

0.000

0.000

< 0.05

Tổng phương sai trích

77.455%

78.966%

> 50%

Số lượng biến loại

1

0

Số lượng nhân tố trích

7

7

Tổng khái niệm

Bảng 2: Kết quả phân tích EFA

Giải pháp cải thiện về chất lượng dịch vụ cảm nhận nhằm tăng quyết định chọn của sinh viên tại Trường Cao đẳng Việt Mỹ

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả

Kết quả phân tích CFA

Phân tích CFA được thực hiện nhằm xác định mô hình đo lường có phù hợp với dữ liệu thực tế trước khi phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính SEM. Qua kết quả đánh giá tính phù hợp của phân tích CFA, lần lượt chỉ ra các giá trị các giá trị CMIN/DF = 2.121, chỉ số đánh giá TLI (0.956) và CFI (0.962). Ngoài ra, chỉ số GFI đạt ở mức 0.887, chỉ số RMSEA 0.053 và giá trị kiểm định Sig. = 0.000 (Bảng 3, Hình 2). Vì vậy, từ kết quả thu được so với tiêu chuẩn ở bảng 3 có thể kết luận mô hình đo lường phù hợp với dữ liệu thực tế. Vì vậy, từ kết quả thu được, có thể kết luận mô hình đo lường phù hợp với dữ liệu thực tế.

Bảng 3: Kết quả phân tích CFA

CMIN/df

TLI

CFI

GFI

RMSEA

P

2.121

0.956

0.962

0.887

0.053

0.000

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả

Hình 2: Mô hình phân tích nhân tố khẳng định (CFA)

Giải pháp cải thiện về chất lượng dịch vụ cảm nhận nhằm tăng quyết định chọn của sinh viên tại Trường Cao đẳng Việt Mỹ

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả

Kết quả phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính SEM

Bảng 4 – Kết quả phân tích mức độ phù hợp của mô hình

CMIN/df

(< 5)

TLI

(> 0.9)

CFI

(0.9)

GFI

RMSEA

(< 0.05)

P

2.184

0.953

0.959

0.883

0.054

0.000

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả

Kết quả phân tích (Bảng 4) cho thấy, mô hình cấu trúc tuyến tính SEM phù hợp với dữ liệu và có thể tiến hành kiểm định giả thuyết trong nghiên cứu. Các mối quan hệ cấu trúc được đề xuất kiểm tra bằng các hệ số đường dẫn giữa các biến, kết quả kiểm định giả thuyết được tóm tắt theo Bảng 5. Cụ thể:

H1a: Chương trình đào tạo có tác động tích cực đến Ý định chọn trường của sinh viên tiềm năng với hệ số beta 0.300 và giá trị kiểm định sig. = 0.000 (< 0.05). Do đó, mức độ tin cậy đạt và có thể kết luận rằng, Chương trình đào tạo có tác động tích cực đến Ý định chọn trường của sinh viên tiềm năng.

Mối quan hệ giữa Chương trình đào tạo, Danh tiếng, Hoạt động ngoài chuyên môn, Hoạt động chuyên môn, Cung cấp thông tin với Chất lượng cảm nhận dịch vụ có hệ số beta lần lượt là 0.071, 0.251, 0.437, 0.205, 0.163 và giá trị kiểm định Sig. lần lượt là 0.203, 0.002, 0.000, 0.003, 0.032. Trong đó, mối quan hệ của Chương trình đào tạo và Chất lượng cảm nhận dịch vụ là không đạt do sig. 0.203 (> 0.05). Còn lại các mối quan hệ khác thỏa điều kiện. Vì vậy có thể kết luận rằng:

H1b: Chương trình đào tạo không có tác động tích cực đến Chất lượng cảm nhận dịch vụ.

H2: Danh tiếng có tác động tích cực đến Chất lượng cảm nhận dịch vụ.

H3: Hoạt động ngoài chuyên môn có tác động tích cực đến Chất lượng cảm nhận dịch vụ.

H4: Hoạt động chuyên môn có tác động tích cực đến Chất lượng cảm nhận dịch vụ.

H5b: Cung cấp thông tin có tác động tích cực đến Chất lượng cảm nhận dịch vụ.

H5a: Mối quan hệ giữa Cung cấp thông tin và ý định chọn trường của sinh viên tiềm năng có kết quả beta là 0.281 và giá trị kiểm định Sig. = 0.000 (<0.05). Do đó, mức độ tin cậy đạt và có thể kết luận rằng, Cung cấp thông tin có tác động tích cực đến Ý định chọn trường của sinh viên tiềm năng.

H6: Cảm nhận về chất lượng dịch vụ có tác động tích cực đến Ý định chọn trường của sinh viên tiềm năng có hệ số beta là 0.363 và giá trị kiểm định Sig. = 0.000. Do đó, mức độ tin cậy đạt và có thể kết luận rằng, Chất lượng cảm nhận dịch vụ có tác động tích cực đến Ý định chọn trường của sinh viên tiềm năng.

Thông qua các kiểm định độ tin cậy của thang đo phân tích EFA, phân tích CFA và phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính SEM. Mô hình được kiểm tra tính phù hợp và có ý nghĩa.

Bảng 5: Tóm tắt kết quả kiểm định giả thuyết

Giả thuyết

Sig.

Kết quả

H1a

Chương trình đào tạo

Ý định chọn trường của sinh viên tiềm năng

0.000

Chấp nhận

H1b

Chương trình đào tạo

Chất lượng cảm nhận dịch vụ

0.203

Không chấp nhận

H2

Danh tiếng

Chất lượng cảm nhận dịch vụ

0.002

Chấp nhận

H3

Hoạt động ngoài chuyên môn

Chất lượng cảm nhận dịch vụ

0.000

Chấp nhận

H4

Hoạt động chuyên môn

Chất lượng cảm nhận dịch vụ

0.003

Chấp nhận

H5a

Cung cấp thông tin

Ý định chọn trường của sinh viên tiềm năng

0.000

Chấp nhận

H5b

Cung cấp thông tin

Chất lượng cảm nhận dịch vụ

0.032

Không chấp nhận

H6

Chất lượng cảm nhận dịch vụ

Ý định chọn trường của sinh viên tiềm năng

0.000

Chấp nhận

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả

KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

Thông qua kết quả nghiên cứu, cần quan tâm đến các nhân tố tác động lên ý định lựa chọn trường của sinh viên tiềm năng theo thứ tự tăng dần như sau: Cung cấp thông tin (0.281), Chương trình đào tạo (0.300) và Chất lượng cảm nhận dịch vụ (0.363). Ngoài ra, nhằm giúp sinh viên tiềm năng cảm nhận được chất lượng dịch vụ của trường và hình thành nên ý định chọn trường, thì các nhân tố chi phối được cân nhắc theo thứ tự quan trọng như sau: Hoạt động ngoài chuyên môn (0.437), Danh tiếng (0.251), Hoạt động chuyên môn (0.205) và Cung cấp thông tin (0.163). Dựa trên kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đề xuất một số hàm ý sau:

Một là, xây dựng đội ngũ tuyển sinh chuyên nghiệp, ân cần và chu đáo nhằm tăng cường chất lượng cảm nhận của sinh viên tiềm năng về trường: Theo đó, cần chú ý đến việc giao tiếp và những gì nhà trường cam kết với sinh viên tiềm năng trong giai đoạn sinh viên tìm hiểu trường. Việc quan tâm chu đáo và thái độ tận tình sẽ giúp cho sinh viên tiềm năng cảm nhận được sự thân thiện và chuyên nghiệp từ đại diện nhà trường. Bên cạnh đó, việc giải đáp các thắc mắc của sinh viên tiềm năng một cách nhanh chóng và hiệu quả là vô cùng cần thiết. Ngoài ra, luôn tuân thủ và hoàn thành công việc theo khung thời gian đề ra sẽ giúp khẳng định uy tín và chất lượng của nhà trường trong mắt sinh viên tiềm năng.

Hai là, luôn củng cố và phát triển hệ thống chương trình đào tạo bám sát nhu cầu của sinh viên tiềm năng: Nhà trường luôn phải chú trọng thiết kế các chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu thực tế của học viên, và đặc biệt chương trình có thể tiếp tục liên thông lên các cấp đào tạo cao hơn cho người học. Ngoài ra, quy mô lớp học và môi trường học tập cần được xem xét và tổ chức một cách hợp lý nhằm thu hút sinh viên nhiều hơn.

Ba là, tăng cường công tác cung cấp thông tin đến sinh viên tiềm năng của trường: Nhà trường cần phải nổ lực trong quá trình truyền thông và đưa đến học viên tiềm năng của mình thông tin chất lượng. Tăng cường hoạt động trải nghiệm tìm hiểu về trường cho học viên tiềm năng. Quy trình cung cấp dịch vụ cần đơn giản và dễ dàng cho sinh viên. Nhà trường luôn phải tích cực và chủ động trong công tác cung cấp thông tin chi tiết và đầy đủ cho sinh viên tiềm năng thông qua mọi phương tiện truyền thông từ truyền thống đến hiện đại./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Abdullah, F. (2006a), Measuring service quality in higher education: HEdPERF versus SERVPERF. Marketing Intelligence and Planning, 24(1), 31-47, https://doi.org/10.1108/02634500610641543.

2. Abdullah, F. (2006b), The development of HEdPERF: A new measuring instrument of service quality for the higher education sector, International Journal of Consumer Studies, 30(6), 569–581, https://doi.org/10.1111/j.1470-6431.2005.00480.x

3. Ajzen, I. (1985), From Intentions to Actions: A Theory of Planned Behavior, In Action Control (pp. 11–39), Springer Berlin Heidelberg, https://doi.org/10.1007/978-3-642-69746-3_2.

4. Ajzen, I. (1991), The theory of planned behavior, Organizational Behavior and Human Decision Processes, 50(2), 179-211, https://doi.org/10.1016/0749-5978(91)90020-T.

5. Ajzen, I., and Fishbein, M. (1977), Attitude-behavior relations: A theoretical analysis and review of empirical research, Psychological bulletin, 84(5).

6. Ajzen, I., and Fishbein, M. (1975), Belief, attitude, intention, and behavior: An introduction to theory and research, Boston, USA: Addison - Wesley Press

7. Annamdevula (2012), Development of HiEdQUAL for Measuring Service Quality in Indian Higher Education Sector, International Journal of Innovation and Technology Management, 3(4).

8. Brady, M. K., and Cronin, J. J. (2001), Some New Thoughts on Conceptualizing Perceived Service Quality: A Hierarchical Approach, The Journal of Marketing, 65 (3), 34-49.

9. Briggs, S., and Wilson, A. (2007), Which university? A study of the influence of cost and information factors on Scottish undergraduate choice, Journal of Higher Education Policy and Management, 29(1), 57–72. https://doi.org/10.1080/13600800601175789.

10. Chapman, D. W. (1981), A Model of Student College Choice, The Journal of Higher Education, 52(5), 490–505, https://doi.org/10.1080/00221546.1981.11778120

11. Connelly, B. L., Certo, S. T., Ireland, R. D., and Reutzel, C. R. (2011), Signaling theory: A review and assessment, Journal of Management, 37(1), 39-67, https://doi.org/10.1177/0149206310388419.

12. Gronroos, C. (1984), A Service Quality Model and its Marketing Implications, European Journal of Marketing, 18(4), 36–44, https://doi.org/10.1108/EUM0000000004784.

13. Grönroos, C. (1990), Service management and marketing, Lexington books Lexington, MA.

14. Hanson, K., and Litten, L. (1982), Mapping the road to academia: A review of research on women, men, and the college selection process. N P. Perun (Ed.), The undergraduate woman, Issues in Education. Lexington, MA: Lexington.

15. Hussin, N. L., Muhamad, N., and Sukor, M. K. T. A. (2019), Determinants of students’ choice of courses and university selection, Journal of Business Innovation, 4(2), 71.

16. Joseph, M., and Joseph, B. (1998), Identifying needs of potential students in tertiary education for strategy development, Quality Assurance in Education, 6(2), 90–96.

17. Joseph, M., and Joseph, B. (2000), Indonesian students’ perceptions of choice criteria in the selection of a tertiary institution: Strategic implications, International Journal of Educational Management, 14(1), 40–44, https://doi.org/10.1108/09513540010310396.

18. Mbawuni, J., and Nimako, S. G. (2015), Critical Factors Underlying Students’ Choice of Institution for Graduate Programmes: Empirical Evidence from Ghana, International Journal of Higher Education, 4(1), https://doi.org/10.5430/ijhe.v4n1p120.

19. Puan Rachmadhani, A., Utami Handayani, N., Agung Wibowo, M., Purwaningsih, R., and Suliantoro, H. (2018), Factor identification of higher education choice to enhance brand awareness of state university, MATEC Web of Conferences, 154, https://doi.org/10.1051/matecconf/201815401051.

20. Ramayah, T., Mohd Nasurdin, A., Nasser Mohd Noor, M., and Hassan, H. (2003), Students’ Choice Intention of a Higher Learning Institution: An Application of the Theory of Reasoned Action (TRA), Malaysian Management Journal, 7(1).

21. Lehtinen, U. and Lehtinen, J.R. (1982), A Study of Quality Dimensions, Service Management Institute, 5, 25-32.

22. Parasuraman A., et al. (1988), SERVQUAL: A Multiple-Item Scale for Measuring Consumer Perception of Service Quality, Journal of Retailing, 64(1), 12-40

23. Sheppard, B. H., Hartwick, J., and Warshaw, P. R. (1988), The Theory of Reasoned Action: A Meta-Analysis of Past Research with Recommendations for Modifications and Future Research, The Journal of Consumer Research, 15(3).

24. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội TP. Hồ Chí Minh (2024), Tình hình hoạt động của các cơ sở dạy nghề năm 2024.

25. Tijjang, B., Kamase, J., Labbase, I., and Plyriadi, A. (2017). The Relevance of Marketing Mix and Service Quality on Students’ Decision-Making Factors Regarding Higher Education and Satisfaction. IRA-International Journal of Management and Social Sciences (ISSN 2455-2267), 8(1), https://doi.org/10.21013/jmss.v8.n1.p9.

26. Tuan, N. A., Hieu, A. Q., Huong, B. T. T., Thuy, H. T. T., and Khuyen, M. T. (2023). Determination of Factors Affecting the Study Decision of Students at University of Education, Vietnam National University Hanoi, WSEAS Transactions on Business and Economics, 20, 225-235, https://doi.org/10.37394/23207.2023.20.22.

27. Vrana, V. G., Dimitriadis, S. G., and Karavasilis, G. J. (2015). Students’ perceptions of service quality at a Greek higher education institute, Int. J. Decision Sciences, 6(1).

28. World Education Statistics (2024), Education Market Reports 2024.

29. Yusof, M., Ahmad, S. N. B., Mohamed Tajudin, M., and Ravindran, R. (2008), A study of factors influencing the selection of a higher education institution, UNITAR E-Journal, 4(2), 27–40.

30. Zaibaf, M., Taherikia, F., and Fakharian, M. (2013), Effect of Perceived Service Quality on Customer Satisfaction in Hospitality Industry: Gronroos’ Service Quality Model Development, Journal of Hospitality Marketing and Management, 22(5), 490–504. https://doi.org/10.1080/19368623.2012.670893.

Ngày nhận bài: 20/02/2025; Ngày phản biện: 28/02/2025; Ngày duyệt đăng: 14/03/2025