Đánh giá tăng trưởng kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam
TS. Lê Phương Thảo
Trường Đại học Thủy lợi
Email: thaolp@tlu.edu.vn
ThS. Đoàn Thị Kim Dung
Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - Tài chính, Bộ Tài chính
Tóm tắt
Nghiên cứu này đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011–2022. Kết quả cho thấy tăng năng suất lao động và mở rộng xuất khẩu là 2 yếu tố then chốt tác động tới tăng trưởng kinh tế, trong khi đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chất lượng thể chế (PCI) và hoạt động nghiên cứu và phát triển (RD) chưa phát huy hiệu quả rõ rệt. Từ các kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đề xuất các giải pháp để Việt Nam chuyển sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu.
Từ khóa: Tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động, đầu tư trực tiếp nước ngoài, xuất khẩu, chất lượng thể chế.
Summary
This study examines the factors that influenced Vietnam’s economic growth from 2011 to 2022. The results indicate that increased labor productivity and export expansion are the two key drivers of economic growth while foreign direct investment (FDI), institutional quality (PCI), and research and development (RD) activities have yet to demonstrate significant effectiveness. Based on the findings, the authors propose several solutions to support Vietnam’s transition toward a more in-depth growth model.
Keywords: Economic growth, labor productivity, foreign direct investment, exports, institutional quality
GIỚI THIỆU
Kể từ khi thực hiện công cuộc Đổi mới vào năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến mạnh mẽ, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung kém hiệu quả sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết quả là Việt Nam đã chuyển từ nhóm nước thu nhập thấp sang nhóm nước có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chủ yếu dựa trên huy động các yếu tố nguồn lực truyền thống với lao động giá rẻ, tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên và quy mô vốn đầu tư. Mô hình này hiện nay đã không còn phù hợp khi có những giới hạn như năng suất lao động tăng chậm, hiệu quả sử dụng vốn thấp, hấp thụ công nghệ thấp và dẫn tới khó duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và lâu dài, tức là, Việt Nam có nguy cơ cao rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Trong bối cảnh đó, yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam là chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu, nâng cao vai trò của các yếu tố hiệu quả đầu tư, chất lượng thể chế, và yếu tố công nghệ tới tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, việc lựa chọn nghiên cứu thực trạng tăng trưởng kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam là cần thiết.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
Khái niệm và đặc điểm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô hàm ý sự thay đổi thu nhập nhiều hay ít, trong khi, tốc độ được sử dụng với mục đích so sánh tương đối và phản ánh sự thay đổi nhanh hay chậm giữa các thời kỳ.
Tăng trưởng kinh tế diễn ra khi đường giới hạn khả năng sản xuất của một nước dịch chuyển ra phía ngoài, là sự tăng lên về thu nhập bình quân đầu người hay nền kinh tế có tốc độ tăng của sản lượng lớn hơn tốc độ tăng dân số. Tức là, tăng trưởng kinh tế phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế, là sự mở rộng các chỉ tiêu thu nhập như GDP, GNI của một quốc gia.
Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế
Có thể thấy, tăng trưởng kinh tế là tiêu thức phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế nhưng bản thân sự tăng trưởng kinh tế cũng có tính hai mặt, đó là mặt lượng và mặt chất của tăng trưởng.
Mặt lượng của tăng trưởng là các chỉ tiêu phản ánh thuộc tính bên ngoài và được đo lường thông qua sự thay đổi về thu nhập.
Trong khi, mặt chất của tăng trưởng phản ánh các thuộc tính bên trong và thể hiện tính hiệu quả và bền vững. Các chỉ tiêu phản ánh tính hiệu quả được nhìn nhận dưới góc độ tiếp cận các yếu tố đầu vào bao gồm vốn, lao động và năng suất nhân tố tổng hợp TFP đóng góp như thế nào cho tăng trưởng kinh tế; hay đánh giá mức độ đóng góp của các ngành cho tăng trưởng kinh tế; và tỉ trọng đầu ra cho tăng trưởng kinh tế. Tính bền vững phản ánh nguồn gốc tạo ra tăng trưởng kinh tế, khả năng duy trì tăng trưởng với tốc độ cao và trong thời gian dài.
Mối quan hệ giữa mặt số lượng và chất lượng của tăng trưởng kinh tế
Số lượng và chất lượng tăng trưởng đều thể hiện một mặt của vấn đề, nhưng ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau và tuỳ định hướng của mỗi quốc gia mà vai trò của số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế sẽ thay đổi.
Giai đoạn đầu: khi nên thu nhập hay tăng trưởng còn ở mức thấp các quốc gia sẽ chú trọng đến số lượng tăng trưởng kinh tế; tuy nhiên, nếu quan tâm quá lớn đến số lượng tăng trưởng các quốc sẽ phải đối mặt với cái giá phải trả đó là sự cạn kiệt tài nguyên và tăng trưởng không bền vững.
Giai đoạn sau: đây là giai đoạn thường xét trong dài hạn và số lượng với chất lượng tăng trưởng là hai yếu tố hỗ trợ nhau, thúc đẩy và tạo điều kiện cùng nhau hoàn thiện. Trong đó, các tiêu chí về chất lượng là cơ hội để đạt được mục tiêu về số lượng. Ngược lại, mặt lượng của tăng trưởng lại tạo ra những hỗ trợ về mặt chất thúc đẩy chất lượng tăng trưởng tốt hơn.
Các nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Theo mô hình Solow-Swan (1956), 3 yếu tố chính tác động tới tăng trưởng kinh tế đó là vốn, lao động và công nghệ, trong đó, công nghệ đóng vai trò quyết định đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn khi vốn và lao động gặp giới hạn về hiệu suất biên. Tuy nhiên, yếu tố công nghệ ở đây là yếu tố ngoại sinh bên ngoài nền kinh tế.
Sau đó, mô hình tăng trưởng nội sinh của Lucas (1988) tiếp tục mở rộng cách tiếp cận này nhưng cho rằng vốn con người – là những lao động có trình độ chuyên môn và kỹ năng lao động sẽ là yếu tố then chốt tác động tới tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, Romer (1990) tập trung vào vai trò của công nghệ và đổi mới sáng tạo, cho rằng tri thức có thể được tích lũy thông qua đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D), từ đó tạo ra động lực tăng trưởng dài hạn với lợi suất tăng dần.
Như vậy, có thể thấy rằng các nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế không chỉ là vốn vất chất và lao động, mà còn bao gồm các yếu tố như chất lượng nguồn nhân lực, yếu tố công nghệ và chất lượng thể chế. Bên cạnh đó, nguồn vốn FDI được xem là kênh truyền tải vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý hiện đại cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp ước lượng
Dưới góc độ lý thuyết kinh tế, các yếu tố về thể chế, trình độ công nghệ, năng suất lao động và nguồn vốn đầu tư đều là những yếu tố có thể có tác động qua lại với tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế sẽ được cải thiện khi có thể chế tốt, trình độ công nghệ và năng suất lao động cao cũng như sử dụng hiệu quả nguồn vốn. Ngược lại, tăng trưởng kinh tế cũng sẽ là điều kiện giúp cải thiện thể chế, đầu tư công nghệ càng nhiều, năng suất lao động càng cao và có thể tăng tích luỹ vốn đầu tư.
Vì vậy, bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng sử dụng mô hình hồi quy công cụ với hồi quy hồi quy 2SLS và GMM. Trong đó, phương pháp GMM dùng để ước lượng mô hình có biến nội sinh - tức là các biến giải thích có thể tương quan với sai số nhiễu. Hơn nữa, GMM cho phép kiểm soát hiện tượng phương sai sai số không đồng nhất và sử dụng các biến công cụ để thay thế cho các biến nội sinh. Ngoài ra, hồi quy 2 bước 2SLS được dùng như một phương pháp so sánh nhằm đánh giá tính nhất quán của kết quả GMM. Phương pháp này phù hợp sử dụng khi sai số đồng nhất và hệ số ước lượng không bị ảnh hưởng nhiều bởi phương sai sai số thay đổi.
Mô hình nghiên cứu
Để lượng hoá tác động của các nhân tố tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam, bài báo đề xuất mô hình nghiên cứu sau:
gt=β0+β1⋅lnFDIt+β2⋅tlvont+β3⋅RDt+β4⋅PCIt+β5⋅gNSLĐt+ β6⋅lnXKt + β7⋅lnNKt +εt
Trong đó:
gt: tốc độ tăng trưởng kinh tế năm t; FDIt là giá trị vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (lấy logarit), tlvont – là đại lượng đo lường tỉ lệ vốn đầu tư trong GDP; RDt - thể hiện hoạt động nghiên cứu và triển khai thông qua số lượng bằng sáng chế; PCI - chỉ số tổng hợp về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (thể hiện chất lượng về thể chế); gNSLĐ là tốc độ tăng trưởng năng suất lao động; và XK và NK lần lượt là giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam tại năm t.
Dữ liệu nghiên cứu
Số liệu sử dụng trong nghiên cứu này là số liệu điều tra hằng năm của Tổng cục Thống kê (GSO) từ 2011-2022. Để có dữ liệu chuỗi thời gian và theo quý, nhóm tác giả đã sử dụng phương pháp phân rã trung bình trượt, xử lý các biến bị missing và không hợp lý. Số liệu sau xử lý gồm 48 quan sát trong vòng 12 năm với đầy đủ các thông tin về tăng trưởng kinh tế và nguồn lực của Việt Nam. Bảng 1 thống kê mô tả các biến.
Bảng 1. Thống kê mô tả
Biến |
Trung bình |
Min |
Max |
---|---|---|---|
g |
1,52 |
0,46 |
2,20 |
lnFDI |
2,96 |
2,69 |
3,12 |
tlvon |
8,08 |
7,34 |
8,65 |
PCI |
14,90 |
13,99 |
15,98 |
RD |
4,68 |
3,30 |
5,63 |
lnXK |
3,89 |
3,16 |
4,54 |
lnXK |
3,88 |
3,27 |
4,51 |
gNSLĐ |
1,18 |
0,81 |
1,45 |
Nguồn: Nhóm tác giả tính toán từ bộ dữ liệu tổng hợp
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Tăng trưởng kinh tế
Trong giai đoạn 2011-2022, tăng trưởng GDP của Việt Nam luôn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Quy mô GDP tăng gấp hơn 2 lần từ 172,6 tỷ USD năm 2010 lên 409 tỷ USD năm 2022. Bên cạnh đó, GDP bình quân đầu người tăng với mức độ nhỉnh hơn so với GDP (từ 1.683 USD năm 2011 lên 4.110 USD năm 2022), phản ánh sự cải thiện tương đối rõ rệt về mức sống của người dân.
Bảng 2. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020
Năm |
GDP (tỷ USD) |
GDP/người (USD) |
Tốc độ tăng trưởng GDP |
2011 |
172,6 |
1.683 |
6,4 |
2012 |
195,6 |
1.951 |
5,5 |
2013 |
213,7 |
2.185 |
5,6 |
2014 |
233,5 |
2.360 |
6,4 |
2015 |
239,3 |
2.546 |
7,0 |
2016 |
257,1 |
2.578 |
6,7 |
2017 |
281,4 |
2.735 |
6,9 |
2018 |
310,1 |
2.956 |
7,5 |
2019 |
334,4 |
3.222 |
7,4 |
2020 |
346,6 |
3.441 |
2,9 |
2021 |
366,2 |
3.743 |
2,6 |
2022 |
409 |
4.110 |
8,0 |
Nguồn: Ngân hàng Thế giới (WB)
Tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn này duy trì ở mức tương đối cao và ổn định. Từ năm 2011 đến năm 2019, tăng trưởng GDP dao động trong khoảng từ 5,5% đến 7,5%, trong đó mức tăng cao nhất được ghi nhận vào năm 2018 với 7,5%. Điều này cho thấy nền kinh tế Việt Nam đã duy trì được động lực tăng trưởng tốt trong suốt gần một thập kỷ. Tuy nhiên, đến năm 2020, do tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, tốc độ tăng trưởng GDP giảm mạnh xuống còn 2,9% và tiếp tục giảm sâu hơn vào năm 2021. Sang năm 2022 nền kinh tế đã có sự phục hồi mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng đạt 8%/ năm. Điều này cho thấy khả năng chống chịu và thích ứng tương đối hiệu quả của nền kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu.
Tổng thể, giai đoạn 2011–2022 có thể được xem là giai đoạn phát triển kinh tế tương đối bền vững của Việt Nam. Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản đều có xu hướng tăng trưởng tích cực, đồng thời phản ánh hiệu quả của các chính sách vĩ mô, chiến lược hội nhập quốc tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững hơn. Tuy nhiên, những biến động trong năm 2020 và 2021 cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc từ bên ngoài trong tương lai.
Các nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế
Bảng 3 cho thấy tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2022 ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố; trong đó đáng chú ý là nguồn vốn FDI, năng suất lao động, thể chế, hoạt động RD và xuất khẩu.
Bảng 3. Các nhân tố tác động tới tăng trưởng kinh tế
Năm |
Tỷ lệ đầu tư so với GDP (%) |
FDI (tỷ USD) |
Hoạt động RD |
Tốc độ tăng năng suất lao động (%) |
PCI |
Giá trị xuất khẩu (tỷ USD) |
2011 |
29,92 |
60,30238 |
162 |
5,2 |
59,15 |
96,91 |
2012 |
29,95 |
68,64549 |
150 |
3,4 |
56,2 |
114,57 |
2013 |
30,12 |
76,50826 |
136 |
3,9 |
58,09 |
132,17 |
2014 |
30,29 |
72,60159 |
333 |
4,4 |
59,99 |
150,24 |
2015 |
30,46 |
83,18179 |
276 |
5,2 |
59,36 |
162,02 |
2016 |
33 |
77,51939 |
494 |
4,9 |
58,02 |
176,58 |
2017 |
33,5 |
78,8366 |
440 |
5,1 |
58,2 |
214,02 |
2018 |
33,6 |
76,55382 |
859 |
5,5 |
58,16 |
243,48 |
2019 |
33,8 |
78,20107 |
798 |
5,6 |
63,25 |
264,19 |
2020 |
34,4 |
84,37759 |
901 |
4,2 |
62,91 |
281,44 |
2021 |
34,6 |
89,98573 |
1001 |
4,6 |
62,19 |
336,31 |
2022 |
34,5 |
85,49438 |
1102 |
4,7 |
60,01 |
371,85 |
Nguồn: Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổng cục Thống kê
Đầu tiên, nhân tố tỷ lệ vốn đầu tư trong GDP luôn duy trì ở mức khá cao (dao động từ 30 – 34,6%) phản ánh tầm quan trọng của vốn với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, cũng có thể thấy sự gia tăng tỷ lệ vốn đầu tư có những năm không thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - thể hiện việc sử dụng vốn chưa hiệu quả, hệ số ICOR còn ở mức cao.
Đối với FDI, giá trị gia tăng ổn định từ 60 tỷ USD lên xấp xỉ 90 tỷ USD cho thấy sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam với nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là liệu thu hút FDI nhưng có tạo ra sự lan toả công nghệ và cải thiện năng suất lao động.
Bên cạnh đó, hoạt động nghiên cứu và phát triển RD tăng mạnh, thể hiện thông qua sự gia tăng liên tục số lượng bằng sáng chế và các chỉ tiêu về đầu tư công nghệ. Tuy nhiên, tốc độ tăng năng suất lao động chỉ ở mức nhẹ (3,4-5,6%/năm) phản ánh hoạt động chuyển giao và ứng dụng công nghệ còn thấp, khả năng hấp thụ công nghệ chưa cao do trình độ người lao động thấp.
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) dao động nhẹ nhưng thiếu ổn định, phản ánh môi trường thể chế vẫn còn dư địa cải thiện về tính minh bạch, hiệu quả thực thi chính sách và hỗ trợ khu vực doanh nghiệp. Ngược lại, xuất khẩu là điểm sáng nổi bật với tốc độ tăng mạnh mẽ, từ gần 97 tỷ USD năm 2011 lên tới gần 372 tỷ USD năm 2022. Điều này khẳng định xuất khẩu tiếp tục là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập sâu rộng vào các hiệp định thương mại tự do.
Vấn đề nội sinh
Phần lý thuyết kinh tế đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng kinh tế có tác động qua lại với nhau, vì vậy, các nhân tố này bị nội sinh.
Ngoài ra, tác giả cũng đã thực hiện kiểm định nội sinh bộ dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu. Kết quả kiểm định với Durbin chi2(3) = 16,4809 và p = 0.0009; và Wu-Hausman F(3,36) = 6,69975; p = 0.0010 hàm ý bác bỏ H0 - tức là các biến thực sự nội sinh và do đó không sử dụng phương pháp ước lượng OLS.
Để khắc phục vấn đề nội sinh sử dụng phương pháp ước lượng GMM và 2SLS với các biến nội sinh là g_lag1; hoạt động RD; và PCI; và các biến công cụ là, g_lag2, gNSLĐ, lnNK, lnFDI, RD_lag1, PCI_lag1.
Kiểm định sự phù hợp của biến công cụ
Đối với phương pháp GMM, thực hiện kiểm định Hansen's J chi2(1) = 0,017361 (p = 0,8952) và phương pháp 2SLS với kiểm định Sargan chi2(1) = 0,015181 (p = 0,9019) và Basmann chi2(1) = 0,012545 (p = 0,9108). Kết quả này hàm ý cả hai kiểm định đều không bác bỏ H0, vì vậy, biến công cụ được sử dụng là hợp lệ.
Kết quả ước lượng và phân tích
Nghiên cứu sử dụng hai phương pháp GMM và 2SLS và kết quả cho thấy sự nhất quán cao giữa các hệ số và mức ý nghĩa thống kê của các biến giải thích tác động tới tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, ảnh hưởng của các nhân tố như Bảng 4.
Bảng 4. Kết quả ước lượng các nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế
Biến |
Ước lượng với GMM |
Ước lượng với 2SLS |
||
Bê-ta |
P-value |
Bê-ta |
P-value |
|
g_lag1 |
0,626*** |
0,000 |
0,624*** |
0,000 |
PCI |
-0,258*** |
0,000 |
-0,259*** |
0,000 |
RD |
-0,402** |
0,021 |
-0,406** |
0,016 |
gNSLĐ |
0,899*** |
0,001 |
0,904*** |
0,000 |
lnXK |
1,041** |
0,013 |
1,049*** |
0,002 |
lnFDI |
-1,195** |
0,048 |
-1,212** |
0,034 |
_cons |
4,745*** |
0,002 |
4,783*** |
0,001 |
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp
Độ trễ của tốc độ tăng trưởng kinh tế: biến này có giá trị dương với mức ý nghĩa rất cao trong cả 2 mô hình. Điều này phản ánh tốc độ tăng trưởng thời ký trước có ảnh hưởng tích cực tới thời kỳ sau. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết tăng trưởng động với yếu tố kinh tế có xu hướng duy trì quán tính tăng trưởng theo thời gian hay tăng trưởng kinh tế có tính động lực.
Tương tự, tăng trưởng năng suất lao động có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế, thể hiện vai trò then chốt của năng suất lao động. Kết quả này phản ánh chính xác so với mô hình nghiên cứu của Solow cũng như Lucas khi khẳng định nâng cao chất lượng nguồn lao động là con đường lựa chọn đúng hướng tới tăng trưởng kinh tế bền vững.
Bên cạnh đó, yếu tố xuất khẩu cũng có giá trị dương với ý nghĩa cao phản ánh xuất khẩu là một động lực mạnh cho tăng trưởng kinh tế. Với xu thể mở của nền kinh tế Việt Nam, mở rộng thị trường xuất khẩu giúp gia tăng sản lượng, tạo việc làm và từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Ngược lại, chỉ số thể chế có hệ số mang giá trị âm và có ý nghĩa thống kê rất cao cho thấy một thực tế là cải thiện thể chế không đồng nghĩa với tăng trưởng cao trong ngắn hạn tại Việt Nam. Điều này có thể lý giải là do các chỉ số đo lượng PCI chưa phản ánh đầy đủ chất lượng thể chế mà chỉ dừng ở mức cải cách hình thức; hoặc là do chi phí tuân thủ thể chế gia tăng trong quá trình cải cách khiến các doanh nghiệp tạm thời gặp khó khăn hay cản trở sự phát triển của doanh nghiệp.
Ngoài ra, hoạt động nghiên cứu và phát triển (RD) cũng có hệ số âm với mức ý nghĩa 5% phản ánh việc đầu tư khoa học công nghệ không như kỳ vọng sẽ tác động dương tới tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn có thể lý giải được là do hiệu quả đầu tư RD chưa cao, khả năng thương mại hoá thấp, con người trong nền kinh tế chưa hấp thụ hết thành quả của RD, hoặc độ trễ của RD chưa thể hiện được rõ trong giai đoạn nghiên cứu.
Cuối cùng, FDI là yếu tố có tác động âm tới tăng trưởng kinh tế. Điều này cho thấy FDI đầu tư vào Việt Nam phần lớn tập trung vào các lĩnh vực gia công, tận dụng lao động giá rẻ những trình độ lao động thấp, do đó không tạo ra tính lan toả FDI và công nghệ tới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đồng thời bị tác động bởi các yếu tố truyền thống như xuất khẩu, vốn đầu tư, cũng như các yếu tố mới như thể chế, công nghệ, năng suất lao động và hiệu quả sử dụng vốn FDI. Trong đó, các biến về thể chế và FDI lại có tác động ngược chiều so với kỳ vọng. Điều này cho thấy, Việt Nam cần phải thay đổi mô hình lựa chọn từ tăng trưởng theo chiều rộng dựa chủ yếu vào số lượng yếu tố nguồn lực sang tăng trưởng theo chiều sâu dựa trên đổi mới sáng tạo, cải thiện năng suất và nâng cao chất lượng thể chế.
Trên cơ sở này, các định hướng dưới đây được đưa ra nhằm góp phần cải thiện số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế hướng tới tăng trưởng bền vững. Cụ thể: (i) Ưu tiên nâng cao năng suất lao động bằng cách đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nâng cao năng lực cho người lao động; (ii) Đổi mới chính sách thu hút FDI theo hướng ưu tiên chất lượng hơn số lượng, chuyển sang thu hút FDI vào các ngành công nghệ cao và năng suất lao động cao; (iii) Cải cách thể chế theo hướng nâng cao chất lượng, tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo và doanh nghiệp nội địa phát triển; (iv) Thúc đẩy hoạt động RD, đẩy mạnh sự kết hợp hài hoà giữa các trung tâm nghiên cứu như viện nghiên cứu, trường đại học với doanh nghiệp nhằm tăng tính ứng dụng của hoạt động RD vào thực tiễn sản xuất; (v) Thúc đẩy xuất khẩu đi đôi với nâng cao giá trị gia tăng của hàng nội địa, dần thay thế xuất khẩu sản phẩm thô sang các sản phẩm tinh chế.
Tài liệu tham khảo
1. Solow, R. M. (1956). A contribution to the theory of economic growth. Quarterly Journal of Economics, 70(1), 65–94.
2. Swan, T. W. (1956). Economic growth and capital accumulation. Economic Record, 32(2), 334–361.
3. Lucas, R. E. (1988). On the mechanics of economic development. Journal of Monetary Economics, 22(1), 3–42.
4. Romer, P. M. (1990). Endogenous technological change. Journal of Political Economy, 98(5), S71–S102.
Ngày nhận bài: 12/05/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 22/5/2025; Ngày duyệt đăng: 24/5/2025 |
Bình luận