Đổi mới cách tiếp cận và phương pháp xây dựng, đánh giá kế hoạch cải thiện PCI qua thực tiễn 17 năm ở tỉnh Đắk Nông
Trần Mạnh Đương; Email: tranduongkhcn@gmail.com
Trần Mạnh Trí, Trường Đại học Văn Hiến
Tóm tắt
17 năm hiện thực hóa giấc mơ, Đắk Nông mất 14 năm kẹt trong “bẫy nhóm cuối bảng xếp hạng”, 16 năm trong “bẫy trung vị cả nước”. Năm 2023 mở ra bước ngoặt đưa Đắk Nông vượt qua các bẫy, ở vị trí thứ 21 lọt vào nhóm địa phương trên trung bình, đánh dấu mốc son chất lượng điều hành kinh tế địa phương trong việc xây dựng môi trường kinh doanh nhằm thúc đẩy phát triển khu vực doanh nghiệp tư nhân. Trên cơ sở phân tích thực trạng PCI Đắk Nông qua các giai đoạn, bài viết chỉ ra những cơ hội tiềm năng, những ràng buộc cần tháo gỡ, cũng như những thách thức cần vượt qua để PCI Đắk Nông trụ vững và thăng hạng trong thời gian tới.
Từ khóa: doanh nghiệp tư nhân, Đắk Nông, môi trường kinh doanh
Summary
After 17 years of realizing the dream, Dak Nong has spent 14 years in the "bottom-ranking trap" and 16 years in the "national median trap". 2023 marks a turning point for Dak Nong to overcome the traps, ranking 21st in the above-average locality group, marking a milestone in the quality of local economic management in building a business environment to promote the development of the private enterprise sector. Based on the analysis of the current situation of PCI Dak Nong through the stages, the article points out potential opportunities, constraints that need to be removed, as well as challenges that need to be overcome for PCI Dak Nong to stand firm and rise in the rankings in the coming time.
Keywords: private enterprises, Dak Nong, business environment
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ước mơ “nhảy trên 40 bậc” đã được tác giả đề cập rất sớm vào năm 2015 qua bài viết “PCI Đắk Nông nhảy trên 40 bậc, có phải là giấc mơ?” [1] - tựa như câu chuyện thần thoại khi mục tiêu kế hoạch hàng năm của Đắk Nông cũng chỉ xoay quanh 5 bậc thứ hạng. Với cách tiếp cận “lấy lại những gì đã mất” về chỉ số thành phần theo điểm số Max, tham chiếu từ năm 2008-2014, PCI Đắk Nông năm 2014 sẽ lọt vào Top 13, tăng 44 bậc - con số “khủng”, nhưng là bước nhảy khả thi, vì đó là điểm số thực và đã có nhiều điển hình trong thực tiễn thời điểm ấy. Giấc mơ ấy đã trở thành hiện thực, khi ngày 09/5/2024, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố Báo cáo PCI năm 2023, trong đó, Đắk Nông đã tăng 17 bậc, từ hạng 38/63 (năm 2022) lên hạng 21/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cũng là tỉnh có PCI cao nhất trong 5 tỉnh Tây Nguyên.
PCI ĐẮK NÔNG QUA CÁC GIAI ĐOẠN
Thời gian qua, điểm số PCI Đắk Nông tăng liên tục qua 3 kỳ điều chỉnh trọng số (2008, 2013, 2022), từ 38,3 điểm năm 2006, lên 41 năm 2008, 54,7 điểm năm 2013, 64,9 điểm năm 2022 và đạt 67,8 điểm năm 2023. Tuy nhiên, thứ hạng không đồng biến với điểm số, bởi còn phụ thuộc vào mối tương quan với các địa phương khác tại thời điểm cụ thể. Hình 1 cho thấy, điểm số cao, nhưng thứ hạng thấp, với điểm số 53,9 ở vị thứ 48 (2012) và 54,68 điểm ở vị thứ 50 (2013); điểm số thấp, thứ hạng cao với 61,96 điểm ở vị thứ 60 (2020) và 61,95 điểm ở vị thứ 52 (2021)… Nhìn chung, điểm số PCI Đắk Nông nằm ở cận dưới và có xu hướng tiến gần điểm trung vị cả nước (Med), nhưng mức độ cải thiện rất chậm, đến 2020, mất 16 năm mới tiệm cận Med.
Hình 1: PCI Đắk Nông trong xu thế chung giai đoạn 2006-2023
Nguồn: Tính toán theo https://pcivietnam.vn/du-lieu-pci
Trong suốt thời gian dài 14 năm (2006-2020), Đắk Nông loay hoay vùng vẫy trong “bẫy nhóm cuối bảng xếp hạng”: năm đầu tiên 2006 ở vị trí 63, năm 2008 lên vị trí 61, năm 2012 lên vị trí 48, xuống vị trí 50 vào năm 2013, sau đó lại quay về điểm xuất phát ở vị trí 63 vào năm 2015…, vị trí 63 vào năm 2018 và vị trí 60 tính vào năm 2020. Đắk Nông phải mất 17 năm hiện thực giấc mơ “nhảy trên 40 bậc”, tuy nhiên, chỉ 3 năm gần đây (2021-2023), Tỉnh đã tạo ra sự bứt phá “nhảy gần 40 bậc”.
Hình 2: Hiện trạng và tiềm năng PCI Đắk Nông giai đoạn 2013-2023
Nguồn: Tính toán theo https://pcivietnam.vn/du-lieu-pci
Có thể thấy, trong thời gian rất dài, tốc độ cải thiện điểm số Đắk Nông chậm hơn nhiều so các địa phương cạnh tranh nhóm dưới, nên không thoát được “bẫy nhóm cuối bảng xếp hạng”. Quá trình cải thiện các chỉ số thành phần (CS) xa rời xu hướng cải cách qua các kỳ thay đổi trọng số, gồm: mô hình “bàn tay trỏ trái” lần 1 năm 2008; “bàn tay trỏ phải” lần 2 năm 2013; “quả táo” lần 3 năm 2022. Đó là những mô hình cải cách tối ưu hóa điểm số PCI, có ý nghĩa tham chiếu cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng và đánh giá kế hoạch cải thiện PCI của các địa phương [4].
Hình 3: Chỉ số thành phần (CSTP) giai đoạn 2008-2012
Hình 3 cho thấy, quá trình thực hiện CS giai đoạn 2008-2013 (giai đoạn 1) biểu diễn qua đường radar đã tách xa mô hình cải cách “bàn tay trỏ trái”, thậm chí trái ngược; lẽ ra, phải tập trung cải thiện các CS có trọng số lớn: CS3_20, CS4_15, CS5_10, CS7_10 (bàn tay) và CS9_20 (ngón trỏ trái). Tương tự, giai đoạn 2 (2013-2020), đường radar cải thiện CS tuy tiến bộ hơn, nhưng vẫn ở trạng thái trái ngược với mô hình cải cách “bàn tay trỏ phải” (Hình 4). Đó là khiếm khuyết mang tính sai lầm chiến lược, cũng như khả năng kiểm soát trong xây dựng và điều hành kế hoạch cải thiện PCI hàng năm kéo dài trong suốt 2 kỳ thay đổi trọng số và là nguyên nhân chủ yếu khiến cho Đắk Nông không thoát khỏi các bẫy như đã đề cập.
Hình 4: CSTP giai đoạn 2013-2020
Qua kỳ điều chỉnh trọng số lần 3, tình hình cải thiện CSTP 2 năm 2022-2023 (giai đoạn 3) đã có sự chuyển biến tích cực, tương thích với xu hướng thay đổi trọng số. Hình 5 cho thấy, đường radar chỉ số phát triển theo hình quả táo biểu thị sự phù hợp khá tương đồng với mô hình cải cách. Sẽ hoàn mỹ hơn nếu quả táo_radar ưu tiên phát triển nở về phía trái thay vì khuyết như hiện nay, nghĩa là hướng về CS Hỗ trợ đào tạo lao động có trọng số lớn (10) để gia tăng điểm số PCI.
Hình 5: CSTP giai đoạn 2022-2023
CƠ HỘI TIỀM NĂNG
Với cách tiếp cận “lấy lại những gì đã mất” về CSTP theo điểm số Max, nếu giữ được những thành quả cao nhất về điểm số CSTP trong quá khứ. Đắk Nông có thể đạt thứ hạng tiềm năng như Hình 2 và Bảng 1.
Bảng 1: Kết quả PCI tiềm năng theo CSTP Max (PCI_in)
| 2012 | 2013 | 2014 | 2015 | 2016 | 2017 | 2018 | 2019 | 2020 | 2021 | 2022 | 2023 |
PCI_In | 61,0 | 59,8 | 60,4 | 60,4 | 61,3 | 62,6 | 63,1 | 64,1 | 64,6 | 66,3 | 69,6 | 72,1 |
Vị thứ Max | 14 | 15 | 12 | 11 | 10 | 27 | 33 | 46 | 20 | 19 | 6 | 1 |
Vị thứ thực | 48 | 50 | 57 | 63 | 61 | 63 | 63 | 62 | 60 | 52 | 38 | 21 |
Nguồn: Tính toán theo https://pcivietnam.vn/du-lieu-pci
Trong đó, PCI_In = CSTP Max hiện tại + CSTP Max quá khứ. Đây là kỳ vọng thực, vì tất cả dựa trên số liệu hiện tại và kết quả đã thực hiện. Chưa cần “vượt qua chính mình” chỉ “lấy lại những gì đã mất”, PCI Đắk Nông vẫn có thể sớm đạt những kỷ lục cao. Dù là điểm kỷ lục, nhưng nhiều CSTP 2023 còn thấp so với cả nước, đặc biệt, lại rơi vào nhiều CS có trọng số cao (CS9 vị thứ 36, CS7 vị thứ 26, CS3 vị thứ 16... ở Bảng 2), nên dư địa tiềm năng (PCI_ex: External) còn rất lớn. Tóm lại, PCI kỳ vọng bao hàm phương châm cốt lõi “lấy lại những gì đã mất“ (PCI_In) và phương châm tăng tốc “vượt qua chính mình” (PCI_Ex).
Theo Bảng 2, nếu các CSTP khiếm khuyết đạt vị trí đầu bảng như các địa phương đã thực hiện, dư địa cải thiện (PCI_Ex) sẽ gia tăng 4,89 điểm, PCI kỳ vọng sau năm 2023 sẽ đạt 76,96 điểm, cao hơn 9,18 điểm so với thực hiện năm 2023 - một khoảng cách lý tưởng cho vị trí đầu bảng.
Cho dù kỳ vọng tương lai còn tùy thuộc vào nỗ lực cải thiện điểm số và mức độ cạnh tranh của các địa phương trong nhóm Top 21, nhưng Đắk Nông tăng trưởng bền vững: trụ hạng và vươn tới những đỉnh cao mới trong bảng xếp hạng.
Bảng 2: PCI kỳ vọng sau năm 2023
PCI theo CSTP Max 2008-2023 (PCI_In) | Dư địa tiềm năng (PCI_Ex) | |||||
CSTP | PCI_In 2023 | PCI_Net | Vị thứ | Năm | Đầu bảng 2023 | |
PCI_Net | Tỉnh/thành | |||||
CS1 | 4,2 | 8,4 | 1 | 2014 |
|
|
CS2 | 7,6 | 7,6 | 1 | 2019 |
|
|
CS3 | 3,3 | 6,5 | 16 | 2013 | 7,28 | Đồng tháp |
CS4 | 4,1 | 8,1 | 12 | 2023 | 8,54 | Quảng Ninh |
CS5 | 11,3 | 7,5 | 8 | 2023 | 7,9 | Hậu Giang |
CS6 | 7,0 | 7,0 | 1 | 2020 |
|
|
CS7 | 10,2 | 6,8 | 26 | 2022 | 7,38 | Ninh Thuận |
CS8 | 10,6 | 7,0 | 16 | 2023 | 7,81 | Bình Thuận |
CS9 | 5,7 | 5,7 | 36 | 2021 | 7,43 | Hà Nội |
CS10 | 8,2 | 8,2 | 4 | 2023 |
|
|
| 72,1 | 72,9 |
|
| PCI_Ex gia tăng 4,89 điểm => PCI kỳ vọng: 76,96 | |
Vị thứ Max |
|
| 1 |
|
Nguồn: Tính toán theo https://pcivietnam.vn/du-lieu-pci
NHỮNG RÀNG BUỘC PHẢI THÁO GỠ
PCI kỳ vọng phụ thuộc vào quá trình thực hiện phương châm “lấy lại những gì đã mất” (PCI_In) và phương châm “vượt qua chính mình” (PCI_Ex). Tất nhiên không tránh khỏi những ràng buộc phải tháo gỡ cần vượt qua.
Thứ nhất, để đạt được PCI_In (Bảng 1), ngoài những kỷ lục thực hiện (CS Max hiện tại), còn phải nỗ lực vươn tới những CSTP cao nhất trong quá khứ tại thời điểm tính toán. CS Max quá khứ chính là nút thắt phải vượt qua để “lấy lại những gì đã mất”, trong đó có những nút thắt từ những thập niên trước đến nay vẫn chưa gỡ được, đó là những ràng buộc mang tính nội tại trong mối quan hệ với cơ hội tiềm năng. Cụ thể: năm 2023 có 6 nút thắt gồm: CS1 năm 2014, CS2 năm 2019, CS3 năm 2013, CS6 năm 2020, CS7 năm 2022 và CS9 năm 2021; trong đó, có tới 4 CS trọng số cao: CS3, CS6, CS7, CS9 (Bảng 2). Nút thắt càng nhiều, sự ràng buộc càng lớn và càng chặt nếu nút thắt có trọng số cao; hiệu quả giải quyết những ràng buộc quyết định trực tiếp đến gia tăng điểm số PCI_In.
Tổng hợp những điểm mạnh và nút thắt trong lịch sử cải thiện PCI theo phương châm “lấy lại những gì đã mất” được biểu diễn qua Hình 6.
Hình 6: Điểm mạnh và nút thắt CSTP giai đoạn 2013-2023
Nguồn: Tính toán theo https://pcivietnam.vn/du-lieu-pci
PCI thuần nghịch biến với điểm thắt nút, nhất là đối với nút thắt có trọng số cao. Nghĩa là, mức độ tác động đến PCI thuần phụ thuộc vào số lượng và trọng số của nút thắt.
Tổng quát, giai đoạn 2 (2013-2021) nhiều nút thắt hơn giai đoạn 3 (2022-2023), đường biểu diễn số lượng nút thắt cũng như nút thắt có trọng số cao đều có xu hướng giảm, từ 10 và 4 năm 2015 xuống còn 5 và 3 năm 2021, nhưng qua năm 2023, giai đoạn 3 bắt đầu có dấu hiệu nhích lên (6 và 4). Hình 6 cho thấy, trong quá khứ, Đắk Nông chưa bao giờ lấy lại được tất cả “những gì đã mất”, chứng tỏ sự ràng buộc luôn hiện hữu, bất chấp những nỗ lực cải thiện và chưa có dấu hiệu tích cực. Đó là điểm nghẽn lớn mang tính cố hữu buộc Đắk Nông phải suy ngẫm và tự trả lời.
Thứ hai, thành tựu những năm gần đây cá biệt có những trường hợp điểm số giậm chân tại chỗ, thậm chí tụt xuống, nhưng thứ hạng lại tăng vọt, chủ yếu đến từ yếu tố bên ngoài:
- Năm 2021, điểm số PCI_G bằng nhau (61,95/61,96), thứ hạng tăng 8 bậc so với năm 2020. Chủ yếu do tốc độ cải thiện của nhóm địa phương cạnh tranh cuối bảng chậm lại
- Năm 2022, PCI thuần 65,64 thấp hơn 1,04 điểm, nhưng tăng vọt 14 bậc so với năm 2021. Sự thay đổi trọng số kỳ 3 mang lại lợi thế, do CSTP điểm số lớn rơi vào nhóm có trọng số cao, nên PCI_G 2022 cao hơn (64,87/61,95) (ii).
Nếu không thay đổi trọng số, PCI_G thấp hơn năm 2021 (61,65/61,95), nhưng vẫn tăng hơn 14 bậc (vị thứ 38 không thay đổi, chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên), chủ yếu do tình hình cải thiện điểm số của các tỉnh/thành chậm lại và tụt xuống (iii). Điều đó (i và iii) phản ánh kết quả PCI năm 2022 chưa thực sự bền vững đến từ nội lực.
Để “vượt qua chính mình” khi chưa lấy lại được những gì đã mất, đó chính là ràng buộc thứ ba.
NHỮNG THÁCH THỨC MỚI CẦN VƯỢT QUA
Một là, qua kỳ thay đổi trọng số lần 3, xu thế cải thiện các CSTP không còn theo mô hình “bàn tay trỏ” mà đã chuyển sang mô hình “quả táo” (Trần Mạnh Trí và Trần Trí Tâm, 2024); mức độ cạnh tranh PCI giữa các địa phương sẽ ngày càng quyết liệt, không chỉ về lượng, mà còn chuyển qua giai đoạn cạnh tranh về chất theo hàm ý ”trái tim và khối óc”[2] khi quả táo chín căng tròn (các CS tiệm cận cực đại). Khi ấy, PCI không đơn thuần là một chỉ số đo lường, mà còn là biểu tượng của sự cảm thụ, trải nghiệm của cộng đồng doanh nghiệp tư nhân đối với môi trường kinh doanh. Do vậy, việc hình thành nền tảng “văn hóa PCI” tương thích với sự biến đổi đó sẽ là một xu hướng nhân văn mới, đồng thời cũng là thách thức mới trong quá trình cải thiện môi trường kinh doanh ở các địa phương.
Hai là, với ý nghĩa đo lường và đánh giá thực tiễn chất lượng điều hành kinh tế của các địa phương trong việc xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi nhằm thúc đẩy phát triển doanh nghiệp tư nhân, mục tiêu phát triển doanh nghiệp tư nhân có thể trở thành một chỉ báo tham chiếu để đo lường hiệu quả quá trình cải thiện PCI ở các địa phương (Trần Mạnh Trí và Trần Trí Tâm, 2024). Khi ấy, PCI sẽ có những cải biến khác biệt, căn cơ về các CSTP và hiệu quả đầu ra, nên quá trình cải thiện PCI sẽ vô cùng khó khăn và đầy thách thức.
Ba là, cuộc rượt đuổi điểm số ngày càng ngắn lại làm cho cạnh tranh thứ hạng càng trở nên khốc liệt với những biến đổi đột phá, thay đổi thứ hạng chỉ tính bằng số thập phân đơn vị điểm số. Trụ hạng thực sự đang trở thành thách thức lớn, nhất là đối các tỉnh/thành thuộc nhóm trung bình và nhóm trên trung bình như Đắk Nông.
Hình 7: Mức độ cạnh tranh nhóm giai đoạn 2006-2023
Nguồn: Trần Mạnh Trí và Trần Trí Tâm (2014)
Nhóm trên trung bình (Nhóm I) gồm các địa phương từ vị thứ 1 đến 21; Nhóm trung bình (Nhóm II) gồm các địa phương từ vị thứ 22 đến 42; Nhóm dưới trung bình (Nhóm III) gồm các địa phương từ vị thứ 43 đến 63
Hình 7 biểu thị biên độ điểm thứ hạng - là khoảng cách điểm số giữa 2 thứ bậc liền kề, nghĩa là điểm số cần để tăng lên một bậc thứ hạng, thể hiện mức độ cạnh tranh thứ hạng, biên độ càng nhỏ mức độ cạnh tranh càng lớn. Điều này cho thấy, không gian cạnh tranh giữa 3 nhóm cũng như trong nội nhóm ngày càng thu hẹp là xu hướng chung. Đặc biệt từ năm 2023 trở đi, mức độ cạnh tranh thứ hạng đã đổi chiều và sẽ rất quyết liệt với độ nhạy biên độ cạnh tranh cực nhỏ: 0,06 đối với nhóm II; 0,17 với nhóm I và 0,21 với nhóm III. Điều này có nghĩa, mức độ cạnh tranh nhóm II gấp 2,8 lần nhóm I và 3,5 lần nhóm III; nhóm I gấp 1,23 lần Nhóm III.
Thứ hạng 21 của Đắk Nông hiện nay ở vị trí mong manh giữa 2 nhóm có mức độ cạnh tranh gay gắt, nên trụ hạng thực sự là thách thức lớn. Chỉ giảm 0,13 điểm số (ngang với Cà Mau) sẽ rơi vào nhóm cạnh tranh cực kỳ khốc liệt (Nhóm II). Khi ấy, nếu giảm 01 đơn vị điểm số, thứ hạng sẽ tụt đến 10 bậc; nếu điểm số nhóm I hồi phục quay lại thời kỳ phát triển trước đó, thì thứ hạng Đắk Nông sẽ tụt sâu hơn nữa.
Có thể nói, kết quả bài viết đã cung cấp góc nhìn mới về tư duy, cũng như cách tiếp cận theo phương châm “lấy lại những gì đã mất” và “vượt qua chính mình”; đồng thời, cung cấp luận cứ kiểm soát mục tiêu cải cách chiến lược theo mô hình “quả táo” và phương pháp phân tích, đánh giá quá trình thực hiện nhằm nhận dạng những tồn tại, nguyên nhân khiếm khuyết cơ bản, đặc biệt là những ràng buộc, thách thức mới nhằm tận dụng cơ hội để cải thiện môi trường kinh doanh có hiệu quả thiết thực vì sự phồn vinh của cộng đồng và phát triển kinh tế địa phương thông qua chỉ số PCI. Kết quả này có thể tham chiếu khả dụng ở các địa phương khác bởi tính khái quát, quy nạp, đúc kết nghiêm túc khoa học từ thực tiễn sinh động 17 năm thực hiện giấc mơ cải cách PCI ở tỉnh Đắk Nông.
Có quá nhiều việc phải làm, phải trăn trở đòi hỏi chúng ta phải tự điều chỉnh tư duy nhận thức, phương pháp tiếp cận, hành động thông minh hơn, nhanh hơn và không ngừng đổi mới, sáng tạo để trụ hạng và phát triển./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Mạnh Đương (2015), PCI Đắk Nông nhảy trên 40 bậc, có phải là giấc mơ?, truy cập từ https://kinhtevadubao.vn/pci-Đắk-nong-nhay-tren-40-bac-co-phai-la-giac-mo-4757.html.
2. Trần Mạnh Đương (2019), Tiếp nối giấc mơ PCI Đắk Nông, Tập san Tri thức và Cuộc sống, Liên hiệp Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Nông, số 01/2019 .
3. Trần Mạnh Đương (2019), Cải thiện PCI nhìn từ vị trí cuối bảng, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 28-2019.
4. Trần Mạnh Trí, Trần Trí Tâm (2024), PCI chuyển qua giai đoạn cạnh tranh về “trái tim, khối óc”, Tạp chí Kinh tế Sài Gòn, số 36-2024.
5. https://pcivietnam.vn/du-lieu-pci.
[1] Theo phổ tam phân 21: nhóm trên trung binh, trung bình và dưới trung bình.
[2] Diễn đạt nghĩa bóng “tình yêu và tri thức” của biểu tượng quả táo.
Ngày nhận bài: 27/9/2024; Ngày phản biện: 05/10/2024; Ngày duyệt đăng: 18/10/2024 |
Bình luận