Kinh tế Việt Nam năm 2024: Cải cách để tăng tốc phục hồi tăng trưởng
Từ khóa: thể chế, cải cách, phục hồi tăng trưởng, kinh tế Việt Nam
BỐI CẢNH KINH TẾ QUỐC TẾ GIAI ĐOẠN 2024-2026
Năm 2023, kinh tế toàn cầu phải đối mặt với khá nhiều khó khăn, thách thức. Xung đột Nga-Ucraina tiếp diễn, trong khi xung đột mới bùng phát ở Trung Đông, Biển Đỏ trong các tháng cuối năm. Cùng với đó, tình hình hạn hán nghiêm trọng ở kênh đào Panama trong giai đoạn đầu năm đã làm cho chi phí vận chuyển hàng hóa từ châu Á đến Mỹ và châu Âu tăng mạnh. Tình trạng thời tiết cực đoan diễn ra ở nhiều nơi, hạn hán kéo dài trên phạm vi rộng, bão lũ, thiên tai làm cho sản xuất và tiêu dùng lương thực mất cân đối. Lạm phát neo ở mức cao trong thời gian dài, tăng trưởng thương mại yếu; niềm tin kinh doanh và niềm tin tiêu dùng phục hồi chậm. Trong bối cảnh ấy, nhiều quốc gia duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt để ưu tiên kiềm chế lạm phát; gia tăng áp lực lên tổng cầu và tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước, kể cả các nền kinh tế lớn. Trong khi đó, thị trường tài chính tiền tệ, bất động sản tại một số nước vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Ngoài ra, bên cạnh việc gia tăng các quy định về phát triển bền vững ảnh hưởng đến nhập khẩu, nhiều nước cũng gia tăng bảo hộ thương mại.
Quá trình toàn cầu hóa đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt liên quan đến phát huy và đổi mới hệ thống thương mại đa phương, cụ thể hóa các định hướng, sáng kiến hợp tác thương mại và đầu tư mới, hài hòa lợi ích giữa các nước lớn, và giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Xu hướng “an ninh hóa” và “vũ khí hóa” các công cụ chính sách thương mại trở nên rõ nét hơn. Không ít quốc gia đã thực hiện kiểm soát/hạn chế/ngừng xuất khẩu một số mặt hàng thiết yếu. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã chứng kiến cạnh tranh chiến lược căng thẳng, phức tạp giữa Mỹ và Trung Quốc, cùng với các nỗ lực thúc đẩy liên kết kinh tế ở khu vực (gắn với thảo luận Khung khổ Kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (IPEF), mở rộng Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), nâng cấp một số hiệp định thương mại tự do (FTA) hiện có của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)…). Các công nghệ mới, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI), đã có những bước đột phá thần tốc trong năm 2023, đồng thời đặt ra các vấn đề hợp tác quốc tế, kể cả cạnh tranh chiến lược, giữa các nước trong việc xây dựng khung quản trị phù hợp. Các quốc gia cũng đã gia tăng hợp tác nhằm thúc đẩy chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, dù còn không ít bất đồng.
Trong năm 2024 và các năm tiếp theo, kinh tế thế giới có thể tiếp tục đối mặt với rủi ro phục hồi chậm, thậm chí kể cả suy giảm do nguy cơ các cuộc khủng hoảng (có thể trên các lĩnh vực năng lượng, y tế, thực phẩm, môi trường, thậm chí kể cả tài chính) trong bối cảnh thắt chặt chính sách đồng bộ nhằm kiềm chế lạm phát cao, những gián đoạn kéo dài do xung đột Nga – Ukraine, xung đột ở Trung Đông, khủng hoảng Biển Đỏ. Ngân hàng Thế giới (NHTG, 01/2024) giữ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ chậm lại vào năm 2024 ở mức 2,4%, do tác động chậm và liên tục của các chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát cao, các điều kiện tín dụng hạn chế cũng như thương mại và đầu tư toàn cầu yếu kém, cùng với tác động từ các cuộc xung đột địa chính trị. NHTG cũng đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2025 còn 2,7% (giảm 0,3% so với dự báo tháng 6/2023). Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF, 01/2024) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu ở mức 3,1% vào năm 2024 (tăng 0,2% so với dự báo tháng 10/2023) và 3,2% vào năm 2025, nhờ khả năng phục hồi cao hơn kỳ vọng ở Mỹ và một số thị trường lớn mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển, cũng như hỗ trợ tài chính của chính phủ Trung Quốc.
Triển vọng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu các năm 2024-2026 có thể sẽ có nhiều bất định hơn. Đà phục hồi ở các nền kinh tế châu Á, gắn với các FTA, có thể tạo thêm động lực để giữ chân nhà đầu tư nước ngoài, và thu hút thêm nhà đầu tư mới. Các nhà đầu tư vẫn muốn duy trì tiếp cận thị trường Trung Quốc và, nếu có dịch chuyển, vẫn ưu tiên các thị trường có thuận lợi khi xuất khẩu vào Trung Quốc. Tuy nhiên, cạnh tranh địa chính trị giữa các nền kinh tế lớn, gắn với các tiêu chuẩn mới và thậm chí là các biện pháp can thiệp (trợ cấp) của một số chính phủ để định hướng hoạt động đầu tư/chuyển hướng đầu tư, có thể ảnh hưởng đến xu hướng dịch chuyển FDI. Việc triển khai thực hiện Cơ chế thuế tối thiểu toàn cầu và các nhóm chính sách liên quan ở nhiều nước trong giai đoạn 2024-2026 cũng có thể ảnh hưởng đến dịch chuyển FDI.
Hệ sinh thái cho chuyển đổi số có thể phát triển sâu sắc hơn. Sự gia tăng của hình thức thanh toán không dùng tiền mặt có thể góp phần tích cực vào quá trình đổi mới, phục hồi tăng trưởng kinh tế thế giới và trong nước. Công nghệ số hóa có thể giúp tiết kiệm những chi phí không cần thiết trong lĩnh vực công hoặc các lĩnh vực kinh tế chủ chốt. Bên cạnh đó, số hóa cũng tạo điều kiện tạo ra nguồn dữ liệu lớn, góp phần vào phân tích và đánh giá nền kinh tế một cách chính xác, kịp thời và tính tự động/thông minh hơn, qua đó giúp các nền kinh tế cải thiện năng lực dự báo và ứng phó trước khủng hoảng, cải thiện dịch vụ và tăng cường khả năng chống chịu trước các cú sốc trong tương lai. Hợp tác giữa các nước có thể được tăng cường thông qua các hiệp định đối tác kinh tế số.
Quá trình toàn cầu hóa đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt liên quan đến phát huy và đổi mới hệ thống thương mại đa phương, cụ thể hóa các định hướng, sáng kiến hợp tác thương mại và đầu tư mới, hài hòa lợi ích giữa các nước lớn, và giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ và Trung Quốc sẽ tiếp tục gia tăng cạnh tranh. Khu vực này cũng sẽ tiếp tục có các nỗ lực thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu tư ở khu vực (gắn với mở rộng CPTPP, nâng cấp một số FTA hiện có của ASEAN…).
Các nước sẽ gia tăng hợp tác nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, gắn với các sáng kiến cụ thể nhằm thúc đẩy hiện thực hóa các cam kết tại COP26, đẩy nhanh việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG). Các tiêu chuẩn về phát triển bền vững (đặc biệt là về lao động, môi trường…) sẽ được lồng ghép nhiều hơn vào các sáng kiến, thỏa ước hợp tác quốc tế. Lĩnh vực năng lượng tái tạo được quan tâm hơn, song tiến triển hợp tác trong lĩnh vực này phụ thuộc vào khả năng giải quyết rủi ro xung đột địa chính trị giữa các nước lớn, rủi ro pháp lý cho các chính phủ, rủi ro chuyển đổi của doanh nghiệp, và chia sẻ lợi ích cho các bên liên quan. Các nước cũng sẽ gia tăng hợp tác nhằm thúc đẩy tương tác giữa chuyển đổi số và chuyển đổi xanh (chuyển đổi kép).
BỐI CẢNH KINH TẾ TRONG NƯỚC GIAI ĐOẠN 2024-2026
Năm 2023, Việt Nam đã quyết liệt thực hiện các giải pháp điều hành phát triển kinh tế-xã hội trên cơ sở theo dõi, đánh giá tình hình, có những điều chỉnh linh hoạt và chỉ đạo tương đối sát để tháo gỡ vấn đề ở một số lĩnh vực (tín dụng, bất động sản…). Công tác cải cách thể chế kinh tế có những chuyển biến quan trọng, đặc biệt đối với việc hoàn thiện khung chính sách cho kinh tế số và kinh tế tuần hoàn; hoàn thiện thể chế liên kết vùng; hiện thực hóa một số cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển kinh tế địa phương; chuẩn bị cho việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu… Công tác ngoại giao kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế được triển khai chủ động, tích cực, bài bản, toàn diện, tích cực tìm kiếm và huy động nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước, kết hợp chặt chẽ với nỗ lực cải thiện mức độ độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Nhờ đó, Việt Nam đã xử lý tương đối hiệu quả tác động của các diễn biến trên thị trường thế giới đối với ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn, đồng thời tiếp tục duy trì, củng cố niềm tin của cộng đồng nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Năm 2024 là năm thứ 4 thực hiện Kế hoạch 5 năm 2021-2025, là năm bản lề, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Năm 2024 cũng được coi là năm tăng tốc, bứt phá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025. Từ vai trò quan trọng đó, ngay từ những tháng đầu năm với quan điểm “Kỷ cương, trách nhiệm; chủ động kịp thời; tăng tốc sáng tạo; hiệu quả bền vững”, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã nhìn nhận thẳng thắn những hạn chế về xây dựng thể chế, tổ chức thực hiện các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và các thách thức khác (cả bên trong và bên ngoài) của nền kinh tế, từ đó có những chỉ đạo, điều hành phù hợp. Bên cạnh đó, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ tiếp tục nhấn mạnh và quán triệt quan điểm, tư tưởng chỉ đạo về khắc phục khó khăn, nỗ lực giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế. Theo đó, các cấp, ngành, địa phương đã triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, thực chất, hiệu quả các nhiệm vụ giải pháp đề ra trong các lĩnh vực; vừa tập trung thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên, vừa chú trọng xử lý các vấn đề tồn đọng kéo dài; đồng thời, theo dõi sát tình hình quốc tế, trong nước, kịp thời có những đối sách xử lý những vấn đề mới phát sinh.
Thúc đẩy đà phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội vẫn sẽ là một ưu tiên quan trọng trong các năm 2024-2026, sau những thành quả và khó khăn của Việt Nam trong các năm 2022-2023. Hoạt động xuất - nhập khẩu có thể vẫn đối mặt với nhiều thách thức, do suy giảm nhu cầu ở các thị trường đối tác, gia tăng các tiêu chuẩn, hàng rào mới đối với xuất - nhập khẩu, rủi ro gián đoạn chuỗi cung ứng, cạnh tranh xuất khẩu từ các nước châu Á… Du lịch có nhiều điều kiện để phục hồi, song còn phụ thuộc vào nỗ lực đơn giản hóa yêu cầu và thủ tục cấp thị thực, lành mạnh hóa thị trường hàng không (trong nước và quốc tế) và việc cung ứng các sản phẩm mới (gắn với du lịch số, du lịch sinh thái và kinh tế ban đêm). Từ thực tiễn các năm 2021-2023, quyết liệt, nỗ lực đẩy nhanh giải ngân đầu tư công - gắn với khơi thông trách nhiệm của cá nhân, tổ chức và chưa điều chỉnh kịp thời các quy định về đấu thầu, kiểm soát tài nguyên - sẽ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam các năm 2024-2026 và giai đoạn tiếp theo. Tư duy chiến lược và các chương trình, sáng kiến thúc đẩy liên kết vùng sẽ tiếp tục được cụ thể hóa nhằm phát huy tác động lan tỏa của các dự án đầu tư công ở cấp độ vùng.
Song song với đó là yêu cầu phải tiếp tục triển khai quyết liệt, chặt chẽ, thận trọng các chính sách, cải cách kinh tế vĩ mô nhằm duy trì và củng cố ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định hệ thống tài chính… Nâng cao năng lực phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô, cảnh báo sớm các căng thẳng trên thị trường tiền tệ và rủi ro lây lan từ các biến động lớn của thị trường tiền tệ - tài chính quốc tế sẽ là một điều kiện tiên quyết. Việt Nam cũng sẽ phải nỗ lực đẩy nhanh các cải cách căn bản gắn với phát triển và lành mạnh hóa thị trường chứng khoán (đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp), cơ cấu lại các tổ chức tín dụng.
Yêu cầu hoàn thiện khung chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân sẽ trở nên cấp thiết hơn, nhằm tạo điều kiện cho khu vực này phục hồi mạnh mẽ hơn, gia tăng sức chống chịu với các cú sốc kinh tế trong và ngoài nước, cải thiện năng lực đổi mới sáng tạo, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực. Việt Nam cũng sẽ rà soát, hoàn thiện khung chính sách gắn với các mô hình kinh tế mới (kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế ban đêm, kinh tế biển xanh) nhằm mở rộng không gian kinh tế và tạo thuận lợi cho khu vực tư nhân.
Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với tốc độ già hóa dân số thuộc nhóm nhanh nhất thế giới. Già hóa dân số sẽ tạo áp lực ngày càng lớn lên hệ thống an sinh xã hội. Lợi thế từ cơ cấu “dân số vàng” đang giảm dần nếu Việt Nam không có những giải pháp nhằm cải thiện năng suất lao động. Tuy nhiên, đây là cơ hội để Việt Nam đổi mới và phát triển hệ thống y tế, trong đó có các dịch vụ y tế thông qua nền tảng số.
Việt Nam tiếp tục tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, mà trọng tâm là các FTA. Cách tiếp cận của Việt Nam đã được định hình rõ nét hơn, hướng tới thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, cải thiện mức độ độc lập, tự chủ, năng lực nội tại và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Quan hệ hợp tác với đối tác được tăng cường, qua đó góp phần củng cố vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế và phát huy đóng góp của Việt Nam vào quá trình định hình các thể chế đa phương và song phương gắn với nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hóa - xã hội, cũng như các vấn đề phát triển bền vững.
Biến đổi khí hậu ngày càng nhanh và tác động mạnh hơn, có thể gây ra thiệt hại nặng nề hơn. Việt Nam đang phải đối mặt với các vấn đề nảy sinh mang tính toàn cầu, như: biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Xu hướng biến đổi khí hậu ở nước ta sẽ ngày càng diễn ra phức tạp, khó lường, kéo dài liên tục (có thể cả giai đoạn sau năm 2026) và có dấu hiệu diễn biến nguy hiểm hơn so với giai đoạn trước. Một số vấn đề nổi bật như: xu hướng nhiệt độ toàn cầu gia tăng dẫn đến tình trạng nước biển dâng và ngày càng xâm nhập sâu vào đất liền có thể gây ra các thiệt hại trong nuôi trồng nông nghiệp, nhiệt độ tăng cũng làm năng suất lúa giảm… Dù đã đưa ra cam kết mạnh mẽ tại COP26 hướng tới phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam vẫn phải xử lý một loạt các vấn đề chính sách liên quan đến xử lý quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu năng lượng hướng tới phát triển bền vững hơn, huy động nguồn lực tài chính để thích ứng với biến đổi khí hậu và thực hiện tăng trưởng xanh, thực hiện hiệu quả cam kết liên quan đến thương mại và phát triển bền vững trong các FTA thế hệ mới…
YÊU CẦU CẢI CÁCH TRONG NĂM 2024
Dù phải đối mặt với không ít khó khăn, các kết quả đạt được trong năm 2023 đã cho thấy sự nỗ lực, thích ứng và khả năng chống chịu của nền kinh tế nói chung và cộng đồng doanh nghiệp nói riêng. Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế vẫn được duy trì. Ổn định kinh tế vĩ mô được giữ vững, lạm phát được kiểm soát, cán cân thương mại thặng dư tương đối lớn. Quan trọng hơn, cộng đồng doanh nghiệp và người dân vẫn tin tưởng và đồng thuận với các định hướng, giải pháp cải cách và điều hành phát triển kinh tế vĩ mô ở Việt Nam.
Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển, có khát vọng phát triển với tầm nhìn 2045, và lại ở một khu vực châu Á - Thái Bình Dương phát triển năng động. Chính vì vậy, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, và an sinh xã hội chính là những nền tảng không thể thiếu, song Việt Nam vẫn phải phấn đấu hoàn thành cao nhất các mục tiêu đề ra, trong đó có thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có chất lượng, có tính bền vững. Yêu cầu ấy không làm giảm bớt sự quan tâm đối với cải cách thể chế kinh tế mà, hơn bao giờ hết, càng đòi hỏi Việt Nam phải quyết liệt đổi mới tư duy để “làm mới” tiến trình cải cách.
Để thực hiện yêu cầu ấy, Việt Nam phải có đánh giá thấu đáo, toàn diện hơn về nội lực của nền kinh tế. Nội lực ấy không chỉ giới hạn ở lượng tiền, vàng và các tài sản khác mà người dân Việt Nam đang nắm giữ. Thể chế chính là một nguồn lực, thậm chí là “chìa khóa” quan trọng. Việt Nam đã sớm có giải pháp nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI, với Quyết định số 127/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ từ năm 2021. Tính toán của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cho thấy, nếu xóa bỏ hoàn toàn khoảng cách với mức trung bình của OECD về các rào cản thương mại và đầu tư, Việt Nam có thể tăng GDP bình quân đầu người thêm 1% sau 01 năm, và 7,3% sau 10 năm tiến hành cải cách (so với kịch bản không cải cách).
Bước vào năm 2024, Việt Nam càng phải quyết liệt hơn với cải cách thể chế kinh tế để tăng tốc phục hồi tăng trưởng. Tư duy nhấn mạnh hơn vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là phù hợp, song không đủ. Việt Nam phải sớm cụ thể hóa các giải pháp chính sách cho đổi mới sáng tạo gắn với cải thiện năng suất lao động và đơn giản hóa các thủ tục kinh doanh. Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và nhập khẩu thông qua các FTA là rất quan trọng, nhưng không làm mất vai trò của tư duy thích ứng với thị trường. Chính ở đây, tư duy chính sách cần tiếp sức cho doanh nghiệp trong quá trình thích ứng, và bản thân doanh nghiệp cũng cần nhận thức yêu cầu bán sản phẩm thị trường cần, chứ không phải bán sản phẩm mà doanh nghiệp có.
Chuyển đổi số và chuyển đổi xanh vẫn là những ưu tiên quan trọng đối với Việt Nam. Khác với các năm trước, trong năm 2024, Việt Nam đã có “hành trang” là khung chính sách tương đối hoàn thiện hơn. Bối cảnh kinh tế khó khăn trong năm 2023, trong một chừng mực nhất định, cũng là “áp lực tích cực” để các cơ quan, doanh nghiệp quyết liệt hơn với tiến trình chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Chính ở đây, Việt Nam cần sớm có các cơ chế thử nghiệm phù hợp để “chắp cánh” cho các mô hình kinh doanh mới của doanh nghiệp hướng tới tận dụng cơ hội từ chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Bên cạnh đó, Việt Nam có thể tranh thủ hỗ trợ của các đối tác FTA thông qua các điều khoản về hợp tác phát triển (chẳng hạn như trong Chương Hợp tác và Nâng cao năng lực của CPTPP, EVFTA,…).
Cụ thể hơn, trong năm 2024, Việt Nam cần tập trung tiếp tục cải cách nền tảng kinh tế vi mô, song song với các biện pháp kinh tế vĩ mô và một số biện pháp khác.
Thứ nhất, cần rà soát, đánh giá kết quả thực hiện, đề ra các giải pháp cụ thể mới để triển khai các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị về đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế tư nhân, định hướng thu hút đầu tư nước ngoài, Cách mạng Công nghiệp 4.0, phát triển vùng, và công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn, tổ chức triển khai hiệu quả các luật căn bản của thể chế kinh tế thị trường, như: Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), Luật Đầu tư (sửa đổi), Luật Đấu thầu (sửa đổi); Luật Quản lý nợ công; Luật Đầu tư công (sửa đổi); Luật Cạnh tranh (sửa đổi); Luật an ninh mạng; Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi), Luật bảo vệ người tiêu dùng (sửa đổi), v.v.
Thứ ba, tổ chức thực hiện Chiến lược quốc gia về Cách mạng Công nghiệp 4.0. Hoàn thiện khung chính sách và chuẩn bị các điều kiện cần thiết hướng đến hình thành một hệ sinh thái hiện đại cho đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam. Rà soát, tháo gỡ các vấn đề về chính sách cạnh tranh trong kinh tế số. Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong việc điều tiết các hoạt động của các tập đoàn công nghệ lớn.
Thứ tư, hoàn thiện khung pháp lý để tận dụng cơ hội từ các mô hình kinh tế mới. Đẩy nhanh việc nghiên cứu, ban hành các nghị định của Chính phủ về cơ chế thí điểm trong các lĩnh vực fintech, kinh tế tuần hoàn. Rà soát các quy định pháp lý liên quan đến các mô hình, hoạt động kinh tế ban đêm để sớm kiến nghị hướng tháo gỡ. Nghiên cứu, xây dựng khung chính sách cho phát triển mô hình kinh tế sáng tạo ở Việt Nam.
Thứ năm, hoàn thiện và triển khai hiệu quả khung chính sách ở tầm quốc gia nhằm cải thiện năng suất lao động, gắn với tăng kỹ năng và chuyển đổi kỹ năng cho người lao động để thích ứng với các mô hình kinh tế mới, chính thức hóa khu vực kinh tế phi chính thức, và ứng dụng hiệu quả các công nghệ mới.
Thứ sáu, hoàn thiện khung chính sách, nâng cao năng lực thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó nhấn mạnh những nội dung về nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và các cơ quan chính phủ, khai thác hiệu quả ưu đãi trong các FTA mới để thúc đẩy phục hồi kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp trên nguyên tắc không trái cam kết quốc tế, tăng cường sự tham gia của Việt Nam ở các diễn đàn và cơ chế hợp tác kinh tế đa phương. Tham gia đàm phán hiệu quả về nội dung nâng cấp một số FTA hiện có của ASEAN. Tận dụng hiệu quả các điều khoản về Hợp tác và Nâng cao năng lực trong các FTA để nâng cao năng lực cho doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là thích ứng với các yêu cầu phát triển bền vững. Tiếp tục vận động các đối tác công nhận quy chế kinh tế thị trường đầy đủ cho Việt Nam./.
TS. Trần Thị Hồng Minh
Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 05, tháng 3/2024)
Tài liệu tham khảo
1. IMF (2024), World Economic Outlook Update, , January 2024.
2. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) (2023), Báo cáo Kinh tế Việt Nam 2023.
3. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2024), Kinh tế Việt Nam năm 2023 và triển vọng năm 2024: Cải cách để tăng tốc phục hồi tăng trưởng, Báo cáo cho Chương trình Cải cách kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh, tháng 01/2024.
4. World Bank (2024), Global Economic Prospects, January 2024.
Bình luận