Nhận định trên được Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đưa ra tại “Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ 2018: Liên kết doanh nghiệp trong nước và nước ngoài hướng tới lợi ích chung” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Tài chính Quốc tế và Liên minh Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) tổ chức vào sáng ngày 04/07.

Liên kết chưa đạt như kỳ vọng, chuyển giao công nghệ còn ở mức thấp

Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam bao gồm doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đã ngày càng trưởng thành, lớn lên cùng đất nước, đông thêm về số lượng, mạnh lên về tiềm lực và là động lực quan trọng góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua liên tục tăng trưởng ở mức cao, GDP năm 2017 đạt 220 tỷ USD tăng gấp 8 lần so với năm 1997, phấn đấu đến 2020 GDP đạt khoảng 300 tỷ USD.

“Có được những thành tựu nói trên không thể không nhắc đến sự đóng góp của khu vực doanh nghiệp FDI”, người đứng đầu ngành Kế hoạch và Đầu tư nhấn mạnh.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng phát biểu tại Diễn đàn VBF giữa kỳ 2018/ Ảnh: Đức Trung

Đến nay, đã có 128 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với khoảng 26.000 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký trên 326 tỷ USD và tổng vốn thực hiện đạt trên 180 tỷ USD. Khu vực FDI ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, đóng góp khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và khoảng 20% GDP, trong đó 58% vốn FDI tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo và tạo ra 50% giá trị sản xuất công nghiệp, đóng góp 72,6% tổng kim ngạch xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho 3,6 triệu lao động trực tiếp và cho 5-6 triệu lao động gián tiếp.

Bộ trưởng Dũng cũng cho biết, khu vực FDI đã có những hiệu ứng lan tỏa đối với các lĩnh vực của nền kinh tế, thông qua việc tiếp cận công nghệ tiên tiến và chuẩn mực quốc tế trong quản trị doanh nghiệp, phát triển kỹ năng của lực lượng lao động, cũng như tạo ra nhiều việc làm trong các lĩnh vực của nền kinh tế…

“Tuy nhiên, sự liên kết giữa khu vực FDI với khu vực doanh nghiệp trong nước cùng tham gia chuỗi giá trị chưa đạt như kỳ vọng, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ và hoạt động chuyển giao công nghệ còn ở mức thấp”, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói.

Trong khi đó, bối cảnh kinh tế toàn cầu đang phục hồi, xu hướng đổi mới công nghệ, mối quan tâm của xã hội và toàn cầu hóa là những động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0, tự động hóa và trí tuệ nhân tạo,… đồng thời, cũng là cơ sở cho những thay đổi về tư duy quản lý của Chính phủ nhằm tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, khơi nguồn sáng tạo và mang tính cạnh tranh…

Theo nhận định của Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, doanh nghiệp FDI không liên kết được với doanh nghiệp trong nước là do, mấu chốt nằm ở vấn đề công nghệ. Các chỉ số liên quan đến khả năng hấp thụ, nắm giữ và phát triển công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Vì vậy, các doanh nghiệp trong nước chưa đủ tiêu chuẩn và chưa đủ khả năng kết nối vào với doanh nghiệp FDI.

“Nhìn vào thực tế, năng lực và chất lượng của các doanh nghiệp sản xuất trong nước còn rất hạn chế, khó đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn trong sản xuất và kinh doanh của các đối tác FDI”, TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI nói thêm.

Bàn về mối liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI, ông Tomaso Andreatta, đồng Chủ tịch Liên minh Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) cho rằng, doanh nghiệp trong nước thường quá nhỏ và quá thiếu kiến thức, cũng như kinh nghiệm trong việc bán sản phẩm cho các khách hàng có thị trường toàn cầu và phải sản xuất các sản phẩm chất lượng hàng đầu với mức giá hợp lý.

"Đó là lý do tại sao doanh nghiệp vẫn phải mang các nhà cung cấp từ bên ngoài vào thay vì đưa các công ty Việt Nam tăng tốc ở nhiều cấp độ", ông Tomaso Andreatta nói.

Theo đồng Chủ tịch VBF, các công ty Việt Nam cần có trình độ quản lý cấp quốc tế, quản lý cấp cấp trung, cần các trường đào tạo, các công ty dịch vụ, ngân hàng, bảo hiểm, công nghệ... trong khi đó những điều này không dễ dàng bởi những rào cản pháp lý, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp hoặc gần đây là Luật An ninh mạng mới.

Một hạn chế nữa của Việt Nam trong việc thu hút công nghệ cao được nói đến là, dù có dân số đông, nhưng quy mô tiền tệ của thị trường đối với hầu hết các sản phẩm, từ tiêu dùng đến công nghiệp đều rất hạn chế và người tiêu dùng Việt Nam hầu hết mua hàng sản xuất ở châu Á.

Ông Tomaso Andreatta, đồng Chủ tịch Liên minh Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF)/ Ảnh: Đức Trung

Một phần vì những vấn đề liên quan đến thuế và hải quan cũng gây nhiều khó khăn tốn kém cho doanh nghiệp, cả về thời gian, tiền bạc và công tác quản lý. Nhiều công ty sản xuất tại Việt Nam phải tái xuất 100% hàng hóa và như vậy một lần nữa đã cô lập các doanh nghiệp trong nước ra khỏi các doanh nghiệp FDI.

Bàn thêm về vấn đề này, ông Kim Heung Soo, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc (KOCHAM) tại Việt Nam thẳng thắn nhận định, thực tế đại đa số các doanh nghiệp địa phương ở Việt Nam vẫn chưa thể sản xuất các sản phẩm phụ trợ đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp FDI.

Còn theo ông Koji Ito, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (JCCI), nếu Chính phủ quy định chính sách tài khóa quá chặt chẽ, cụ thể là hạn chế quy mô nợ công dưới 65% GDP thì sẽ cản trở việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Trong khi Việt Nam đang rất cần những khoản đầu tư này để bảo đảm tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn.

“Kết cấu hạ tầng lạc hậu sẽ làm giảm sức hút đầu tư của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, cũng sẽ làm mất đi cơ hội để kết nối doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp FDI”, ông Koji Ito khẳng định.

Cần sự hỗ trợ, đồng hành của Chính phủ

Theo người đứng đầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để tăng cường sự liên kết đó, các doanh nghiệp FDI cần chủ động tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội từng bước tham gia vào chuỗi giá trị. Doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực đổi mới tư duy quản lý theo hướng hiện đại, tiếp cận công nghệ tiên tiến, nâng cao kỹ năng và trình độ lao động, tăng năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh.

Đồng hành cùng với doanh nghiệp, Chính phủ phải có các biện pháp thiết thực nhằm tạo điều kiện và hỗ trợ cho sự liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI một cách hiệu quả và dễ tiếp cận.

TS. Lộc cũng cho biết, VCCI và các phòng Thương mại, VBF sẽ cố gắng xây dựng một chương trình lựa chọn và hỗ trợ các nhóm cộng đồng doanh nghiệp tư nhân có tiềm năng của Việt Nam, có thể kết nối với doanh nghiệp FDI.

“Chúng ta không thể hỗ trợ tới toàn hộ hàng trăm nghìn doanh nghiệp, hàng triệu doanh nghiệp kết nối với FDI. Tuy nhiên, chúng ta có thể lựa chọn những doanh nghiệp tiêu biểu, tiên tiến nhất trong cộng đồng doanh nghiệp để nâng cấp quản trị và công nghệ để có thể kết nối doanh nghiệp FDI. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế, thực hiện tốt các FTA, ứng dụng công nghệ 4.0, phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân, kết nối FDI và khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam. Đây sẽ là 5 động năng phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới”, Chủ tịch VCCI nhấn mạnh.

Trong khi đó, Đồng Chủ tịch VBF cho rằng, một mặt cần hướng dẫn các công ty lớn trong nước từ bỏ bất động sản, mặt khác cần quản lý chuyên dụng mới và đặt nền tảng cho các công ty thuộc các ngành công nghiệp và công nghệ hiện đại.

"Ngoài ra, cần tập trung các công ty hiện nay thành những công ty lớn có đủ khả năng tham gia vào những hoạt động kinh doanh phức tạp hơn và có thể thu hút được những tài năng và kỹ năng cần thiết", ông Tomaso Andreatta cho hay.

Mặt khác, ông Tomaso Andreatta cũng cho rằng, giảm gánh nặng thuế và hải quan sẽ giúp giải phóng nguồn lực cho các công ty trong nước để đầu tư vào kiến thức và công nghệ và thu hút các công ty nước ngoài sản xuất cho thị trường nội địa. Và như vậy, sẽ mở cánh cửa hợp tác giữa hai bên.

Hơn nữa, một số tổ chức trong nước, như thị trường vốn cùng với luật tái cơ cấu doanh nghiệp và M&A và quy mô của các nhà đầu tư tổ chức trong nước vẫn chưa cho phép tạo ra các công ty đủ nguồn lực tài chính để đầu tư cần thiết tiếp cận thị trường thế giới. Do đó, Việt Nam cần phải phát triển mạnh mẽ hơn nữa thị trường vốn.

Trong khi đó, theo ông Koji Ito, một trong những trách nhiệm của Chính phủ là cần đề ra những quy định để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có môi trường hoạt động thông thoáng đến mức tối đa, nhưng vẫn đảm bảo kỷ cương chặt chẽ. Cụ thể là phải làm thế nào để hai phía gồm các doanh nghiệp Việt Nam với tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ và những doanh nghiệp FDI với nguồn vốn, kinh nghiệm làm ăn có thể tăng cường tiếp cận được những nguồn lực về con người, sản phẩm và vốn....

Đại diện JCCI cũng bày tỏ mong muốn, Chính phủ Việt Nam cần sớm có biện pháp xử lý căn nguyên của vấn đề và có những giải pháp để tăng cường cải cách cơ cấu ở cả hai chiều thu và chi ngân sách. Cùng với đó, rà soát lại hiệu quả sử dụng nợ công hiện nay. JCCI kỳ vọng Việt Nam sẽ khai thác được những nguồn vốn cần thiết để xây dựng kết cấu hạ tầng. Từ đó, góp phần thắt chặt mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. /.