Mối quan hệ giữa tham nhũng và tăng trưởng kinh tế tại các nước ASEAN: Tiếp cận theo mô hình ARDL
TS. Nguyễn Hữu Cung
Email: cungnh@vnu.edu.vn
Trường Khoa học liên ngành & Nghệ thuật – Đại học Quốc gia Hà Nội
TS. Đặng Trung Tuyến (Tác giả liên hệ)
Email: tuyendt@vnu.edu.vn
Trường Đại học Kinh tế – Đại học Quốc gia Hà Nội
Tóm tắt
Nghiên cứu này phân tích tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia ASEAN giai đoạn 2012-2022. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tham nhũng có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn, đặc biệt ở các quốc gia theo chế độ quân chủ. Hơn nữa, khoảng 43,37% sự thay đổi của tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn sẽ được giải thích bởi giá trị tăng trưởng kinh tế của kỳ trước và mức độ tham nhũng. Tuy nhiên, bài viết không tìm thấy mối quan hệ qua lại giữa hai chỉ tiêu này trong dài hạn. Từ kết quả nghiên cứu, để phát triển kinh tế, nhóm tác giả khuyến nghị, các quốc gia ASEAN cần kiểm soát nghiêm minh, khuyến khích sự tham gia của người dân, áp dụng công nghệ, nâng cao nhận thức, và xây dựng hệ thống pháp luật mạnh mẽ. Những biện pháp này sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.
Từ khóa: ASEAN, mô hình ARDL, tăng trưởng kinh tế, tham nhũng
Summary
This study analyzes the impact of corruption on economic growth in ASEAN countries during 2012-2022. The results show that corruption negatively impacts economic growth in the short term, especially in monarchical countries. Moreover, about 43.37% of the variation in economic growth in the short term will be explained by the value of economic growth in the previous period and the level of corruption. However, the article does not find a reciprocal relationship between these two indicators in the long term. From the research results, to develop the economy, the authors recommend that ASEAN countries need strict control, encourage people's participation, apply technology, raise awareness, and build a strong legal system. These measures will help promote economic growth and sustainable development.
Keywords: ASEAN, ARDL model, economic growth, corruption
GIỚI THIỆU
Tham nhũng là một đặc điểm dai dẳng của xã hội loài người, được coi là “bán tài sản nhà nước để thu lợi riêng” (S.Aidt, 2009). Trên thực tế, tham nhũng luôn là vấn đề nhận được sự quan tâm đặc biệt của các quốc gia trên thế giới. Chính vì thế, ngày nay tham nhũng không chỉ dừng lại là vấn đề của riêng một quốc gia mà đã trở thành vấn đề cấp bách trên toàn cầu.
Khu vực Đông Nam Á luôn bị Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp vào nhũng nước tham nhũng nhất thế giới trong nhiều năm từ 2012-2017 (Nguyễn Quang Đại, 2018). Mặc dù qua các hoạt động phòng chống tham nhũng, chỉ số CPI đã được cải thiện nhưng tham nhũng vẫn là một rào cản cần được giải quyết để các quốc gia ASEAN đạt được các mục tiêu tăng trưởng và phát triển. Theo báo cáo CPI của Tổ chức Quốc tế Chống tham nhũng năm 2022, điểm số trung bình CPI của khu vực ASEAN là 39/100, trong đó Singapore có điểm cao nhất (83 điểm) và Myanmar có điểm số thấp nhất (23 điểm).
Có thể thấy, tham nhũng và tăng trưởng kinh tế là hai vấn đề quan trọng, đáng được chú trọng trong khu vực ASEAN. Các quốc gia trong khu vực này đang nỗ lực không ngừng để hướng tới một mục tiêu chung là giảm tham nhũng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong nhiều năm liền, mức độ tham nhũng tại nhiều quốc gia ở đây phải đối mặt với mức độ tham nhũng cao trong các cơ quan chính phủ, hệ thống hành chính và thậm chí là cả trong lĩnh vực kinh tế, gây ảnh hưởng tiêu cực và trở thành một trong những rào cản cản trở sự phát triển kinh tế. Do vậy, thách thức đặt ra cho các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á là làm thế nào để giảm được tham nhũng trong quốc gia, đặt nền tảng thuận lợi cho kinh tế tăng trưởng ổn định và phát triển bền vững.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các biến, dữ liệu và giả thuyết nghiên cứu
Dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này là dữ liệu thứ cấp, cụ thể là: Tham nhũng được đo lường bằng Chỉ số nhận thức tham nhũng (CPI) được thu thập từ dữ liệu của Tổ chức Minh bạch Thế giới; Tăng trưởng kinh tế được đo lường bằng tăng trưởng GDP thu thập từ kho dữ liệu của Macrotrends trong giai đoạn 2012-2022 (giai đoạn sau khi chỉ CPI chính thức được tính theo thang 10). Không gian thu thập dữ liệu là 10 quốc gia ASEAN bao gồm Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Lào, Việt Nam, Brunei, Singapore, Philippines, Campuchia, và Myanmar. Dữ liệu trong nghiên cứu là sử dụng dữ liệu bảng (dữ liệu gộp), tức là dữ liệu kết hợp chéo với dữ liệu chuỗi thời gian.
Dựa vào kiến thức thực tiễn và một số nghiên cứu của một số học giả, bài viết đưa ra hai giả thuyết như sau:
H1: Giữa Tham nhũng (biến phụ thuộc) và Tăng trưởng kinh tế (biến độc lập) có mối quan hệ cả trong dài hạn và ngắn hạn với nhau.
H2: Tham nhũng có tác động tiêu cực tới Tăng trưởng kinh tế.
Phương pháp nghiên cứu
Kiểm định đồng liên kết độ trễ phân phối tự hồi quy (ARDL)
Mục tiêu của bước này là để giải thích cho mối quan hệ dài hạn giữa các biến của nghiên cứu. Đối với lĩnh vực kinh tế học, hầu hết các tài liệu đều đã sử dụng phương pháp đồng liên kết Johansen trong việc ước lượng mối quan hệ dài hạn giữa các biến (Johansen, S. 1988). Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây đã giới thiệu kiểm định đồng liên kết ARDL như một giải pháp thay thế trong việc giải quyết vấn đề đồng liên kết và có rất nhiều lợi ích vượt trội hơn so với phương pháp đồng liên kết Johansen. Thứ nhất, kiểm định ARDL tương đối hiệu quả hơn khi kích thước dữ liệu của nghiên cứu nhỏ. Thứ hai, kiểm định ARDL cho phép kỹ thuật bình phương nhỏ nhất (OLS) thông thường ước lượng sự đồng liên kết khi độ trễ của mô hình được xác định. Cuối cùng, kiểm định ARDL có thể giải quyết mô hình khi các biến có tính dừng hỗn hợp. Cụ thể, chỉ có thể áp dụng kỹ thuật Johansen khi các biến của nghiên cứu là dừng ở mức I(0), nhưng khi tất cả các biến đều dừng ở (I(1)) hoặc các biến dừng ở cả I(0) và I(1), thì mô hình ARDL là lựa chọn tối ưu.
Ước lượng trung bình nhóm gộp PMG
Pesaran và cộng sự (1999) đã đề xuất cách tiếp cận ARDL cho nhóm các quốc gia thông qua mô hình Nhóm trung bình nhóm gộp (PMG) để ước tính tác động lâu dài của tham nhũng lên tăng trưởng kinh tế. Theo phương pháp PMG, hệ số dài hạn là giống nhau cho tất cả các đơn vị, tốc độ điều chỉnh và hệ số ngắn hạn là khác nhau giữa các đơn vị bảng. Đây là phương pháp để ước tính các tham số của mô hình, mang lại ước tính nhất quán và tiệm cận theo một số giả định đều đặn.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Mối quan hệ giữa tham nhũng và tăng trưởng kinh tế
Trước khi sử dụng ước lượng nhóm trung bình gộp PMG để xác định mối quan hệ và tham số dài hạn giữa các biến trong mô hình độ trễ phân tán tự động ARDL cũng như hệ số ngắn hạn của từng quốc gia, cần xác định độ trễ của mô hình. Biến GDP của các quốc gia đều có độ trễ là 1, nhưng biến CPI lại có hai độ trễ 0 tại 08 quốc gia và độ trễ 1 tại 02 quốc gia (Cambodia và Malaysia).
Kết quả ước tính của PMG cho thấy, khoảng 43,37% sự thay đổi của GDP trong ngắn hạn sẽ được giải thích bởi của GDP kỳ trước đó và tham nhũng. Do hệ số điều chỉnh trong ngắn hạn là âm (-0,4337638) tại mức ý nghĩa thống kê là 10% nên mô hình là phù hợp. Theo đó, tham nhũng có tác động âm đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn với hệ số tương quan là -6,00819 trong mức ý nghĩa thống kê là 5%. Trong khi đó, nếu đặt trong dài hạn, thì CPI và GDP không tồn tại mối quan hệ tương quan với nhau, do không có ý nghĩa thống kê (Bảng 1).
Bảng 1: Kết quả ước tính PMG tại các quốc gia ASEAN
![]() |
Nguồn: Tính toán bởi nhóm tác giả sử dụng Stata 15 |
Do vậy, đối với hai giả thuyết được đưa ra, giả thuyết 2 là tham nhũng có tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế được chấp nhận. Còn giả thuyết 1 là có mối quan hệ dài hạn giữa tham nhũng và tăng trưởng kinh tế bị bác bỏ bởi kết quả không có tại mức ý nghĩa thống kê là 5%. Kết quả này đã một lần nữa khẳng định kết quả nghiên cứu của Lutfi và cộng sự (2020) về mối quan hệ tương quan nghịch giữa tham nhũng và tăng trưởng kinh tế là đúng khi áp dụng tại các quốc gia ASEAN. Tăng trưởng kinh tế cần phải đi đôi với giảm thiểu nạn tham nhũng tại quốc gia để đảm bảo ổn định và bền vững trong phát triển kinh tế. Nhưng có thể khẳng định, nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng trong ngắn hạn nếu tình trạng tham nhũng trở nên nghiêm trọng. Việc cải thiện tình trạng tham nhũng tại từng quốc gia nói riêng và trong cả khu vực nói chung có thẻ giúp các quốc gia ngày càng phát triển, ngày càng thu hút được nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài cũng như khiến ASEAN trở thành khu vực an toàn, trong sạch, là điểm đến đáng tin cậy đối với các nhà đầu tư.
Mối quan hệ giữa tham nhũng và tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh thể chế khác nhau giữa các nước ASEAN
Theo Thùy Dương và Ngọc Trâm (2016), các quốc gia ASEAN khi chia theo thể chế chính trị sẽ được chia thành 2 nhóm:
Nhóm 1: Các chính thể quân chủ bao gồm: Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Brunei. Tại các quốc gia này, đứng đầu là Quốc vương với quyền lực lớn nhất.
Nhóm 2: Các chính thể cộng hòa bao gồm: Lào, Indonesia, Philippines,Singapore, Myanmar, Việt Nam.
Bảng 2: Kết quả ước tính PMG tại các quốc gia theo thể chế quân chủ
![]() |
Nguồn: Kết quả từ Stata 15 |
Kết quả nghiên cứu cho thấy, đối với nhóm quốc gia theo thể chế chính trị quân chủ, CPI có mối quan hệ tương quan nghịch đối với tăng tưởng kinh tế trong ngắn hạn. Cụ thể, hệ số ngắn hạn là -11,53781 với mức ý nghĩa là 5% (Bảng 2). Điều này chứng tỏ, tại các quốc gia theo thể chế chính trị quân chủ, tham nhũng có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn (khi tham nhũng tăng thì tăng trưởng kinh tế giảm).
Bảng 3: Kết quả ước tính PGM tại các quốc gia theo thể chế cộng hòa
![]() |
Nguồn: Kết quả từ Stata 15 |
Đối với nhóm quốc gia theo thể chế cộng hòa, do không có ý nghĩa thông kê ở mức ý nghĩa là 5% (Bảng 3), nên không ước lượng được mối quan hệ giữa tham nhũng và tăng trưởng kinh tế trong nhóm nước này cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Thảo luận kết quả nghiên cứu
Qua quá trình phân tích, đối với giả thuyết 1, nghiên cứu chưa đưa ra được nhận định rõ ràng, vậy nên cũng không thể bác bỏ kết quả của những nghiên cứu trước đó liên quan đến giả thuyết này. Tuy nhiên, đề tài cũng nhận định được giữa tham nhũng và tăng trưởng kinh tế tồn tại mối quan hệ trong ngắn hạn. Kết hợp với giả thuyết 1, điều đó có nghĩa là trong ngắn hạn, tham nhũng có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, trái ngược với nhận định của Nasir và cộng sự (2021). Theo đó, tác động của tham nhũng lên lĩnh vực kinh tế có thể nhận diện trong khoảng thời gian ngắn, chỉ cần Chính phủ, Nhà nước không kiểm soát được tham nhũng thì ngay lập tức nền kinh tế quốc gia sẽ phải đối mặt với nguy cơ tăng trưởng thấp, đời sống xã hội của người dân cũng không được duy trì ổn định. Do vậy, có thể nói, phòng chống tham nhũng là hoạt động không thể thiếu của mỗi một quốc gia và hàng năm, hoạt động này đều cần phải được duy trì và thực hiện nghiêm túc và mạnh mẽ để đảm bảo các quốc gia trong khu vực có thể hoàn thành các mục tiêu về kinh tế.
Đối với giả thuyết 2, kết quả đã tìm ra tác động tiêu cực của tham nhũng đối với tăng trưởng kinh tế, cũng như khẳng định kết quả nghiên cứu của các nghiên cứu của Gründler (2019), Qudah và cộng sự (2020), Spyromitros (2022) là phù hợp khi áp dụng tại ASEAN. Tham nhũng gây ra sự mất niềm tin của không chỉ người dân của quốc gia vào hệ thống chính trị mà còn gây mất niềm tin từ các nhà đầu tư đến từ các quốc gia, khu vực khác khi có dự định đầu tư vào khu vực ASEAN. Tuy nhiên, tác động tiêu cực này chỉ tìm thấy ở các quốc gia theo thể chế dân chủ, tức là các quốc gia có quốc vương là người đứng đầu, thì tham nhũng có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn. Trên thực tế, tại các quốc gia theo thể chế chính trị này, quốc vương là người sở hữu quyền lực tuyệt đối hoặc có quyền lực rất lớn. Điều này dẫn đến sự thiếu kiểm soát và cân bằng quyền lực, tạo điều kiện thuận lợi cho tham nhũng xảy ra. Còn tại các quốc gia theo thể chế cộng hoà, bài viết chưa tìm thấy bằng chứng chứng minh.
KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT
Kết luận
Tham nhũng là một trong những trở ngại lớn nhất đối với tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững, đặc biệt là ở các quốc gia ASEAN. Nghiên cứu này đã sử dụng dữ liệu thứ cấp từ năm 2012 đến 2022 để phân tích tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế, đo lường bằng chỉ số CPI và GDP. Kết quả cho thấy tham nhũng có tác động tiêu cực đáng kể đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn, với hệ số hồi quy -6,00819 ở mức ý nghĩa thống kê 5%. Tuy nhiên, không tìm thấy mối quan hệ dài hạn giữa hai chỉ tiêu này.
Phương pháp PMG đã xác định rằng, trong ngắn hạn, khoảng 43,37% sự thay đổi của GDP kỳ này được giải thích bởi giá trị GDP kỳ trước và mức độ tham nhũng. Đối với các quốc gia theo thể chế quân chủ, tham nhũng có tác động tiêu cực mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế trong, ngược lại với các quốc gia theo thể chế cộng hòa, không tìm thấy mối quan hệ tương quan đáng kể.
Một số đề xuất
Dựa trên kết quả này, theo chúng tôi, các quốc gia ASEAN cần tăng cường kiểm soát và nghiêm trị các trường hợp tham nhũng, khuyến khích sự tham gia của người dân, áp dụng công nghệ trong quản lý tài chính, nâng cao nhận thức và giáo dục về tham nhũng, và xây dựng hệ thống pháp luật mạnh mẽ, minh bạch. Hợp tác quốc tế cũng là yếu tố cần thiết để ngăn chặn tham nhũng xuyên biên giới. Việc thực hiện các biện pháp này sẽ giúp giảm thiểu tham nhũng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững. Cụ thể, một số giải pháp cho các quốc gia trong khu vực ASEAN như sau:
Thứ nhất, Chính phủ, Nhà nước các quốc gia cần tăng cường kiểm soát và nghiêm khắc, nghiêm minh với những trường hợp tham nhũng được phát hiện. Cụ thể, các quốc gia có thể tiến hành xây dựng cơ quan giám sát độc lập được trang bị đầy đủ tư cách pháp lý, quyền hạn và nguồn lực trong quá trình kiểm tra và giám sát các hoạt động của cá nhân và tổ chức.
Thứ hai, tạo điều kiện cho người dân cùng tham gia vào quá trình quyết định và đảm bảo người dân có quyền lên tiếng khi gặp các tình huống lạm dụng công quyền để tham nhũng như thành lập các kênh phản ánh cho người dân đồng thời bảo mật thông tin của người tiết lộ thông tin hoặc cơ chế báo động cho nhân viên công chức để kịp thời báo cáo về hành vi tham nhũng.
Thứ ba, trong thời đại công nghệ số phát triển mạnh mẽ, có thể áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý tài chính cũng như quá trình theo dõi, kiểm tra trong các cơ quan, tổ chức công giúp làm giảm thiểu sự can thiệp của con người qua đó giảm thiểu được nguy cơ tham nhũng. Bên cạnh đó, có thể áp dụng khoa học và công nghệ kỹ thuật tiên tiến vào việc xây dựng các nền tảng, cơ sở phát hiện, tố cáo ẩn danh cho người dùng, khuyến khích người dân tích cực báo động khi nhận thức được hành vi tham nhũng.
Thứ tư, tăng cường giáo dục, tăng nhận thức của công dân đối với tham nhũng. Đồng thời, tích cực đào tạo cán bộ, công chức, viên chức trong nhà nước nhằm giải quyết tham nhũng từ “gốc đến ngọn”. Bằng cách đưa vào chương trình giáo dục các khóa học hoặc hoạt động giáo dục về tham nhũng cùng với việc xuất bản các tài liệu giáo dục liên quan đến tham nhũng, nhận thức trong cộng đồng của quốc gia về vấn nạn tham nhũng cũng được tăng lên giúp giảm mức độ tham nhũng. Cộng đồng có chủ động nhận trách nhiệm trong hoạt động phát hiện, báo cáo hành vi chống tham nhũng cũng là một yếu tố giúp tham nhũng giảm nhanh chóng.
Thứ năm, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật mạnh mẽ, minh bạch và nghiêm khắc đối với các hành vi tham nhũng bao gồm các quy định phòng ngừa, phát hiện, truy cứu và trừng phạt cụ thể với hành vi tham nhũng. Trong đó, tòa án, công tố viên, cảnh sát cũng cần đảm bảo được độc lập và không bị ảnh hưởng bởi áp lực chính trị hay tham nhũng để đảm bảo được tính công bằng trong hệ thống pháp luật của cuộc gia. Bên cạnh đó, cũng cần có sự hợp tác quốc tế với các quốc gia trong khu vực để phòng tránh tham nhũng qua biên giới./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gründler, K., Potrafke, N. (2019), Corruption and economic growth: New empirical evidence, European Journal of Political Economy, 60.
2. Johansen, S. (1988), Statistical Analysis of Cointegration Vectors, Journal of Economic Dynamics and Control, 12, 231-254.
3. Lutfi, A. F., Zainuri, Z., Diartho, H. C. (2020), Dampak Korupsi Terhadap Pertumbuhan Ekonomi: Studi Kasus 4 Negara di ASEAN (The Impact of Corruption on Economic Growth: A Case Study of 4 Countries in ASEAN), E-Journal Ekonomi Bisnis Dan Akuntansi, 7(1), https://doi.org/10.19184/ejeba.v7i1.16482.
4. Nasir, M. S., Wibowo, A. R., Yansyah, D. (2021), The determinants of economic growth: Empirical study of 10 Asia-Pacific countries, Signifikan: Jurnal Ilmu Ekonomi, 10(1), 149-160.
5. Nguyễn Quang Đại (2018), Chống tham nhũng ở ASEAN, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, tháng 11/2018.
6. Qudah, A. A., A. Z., M. E. A. (2020), Does corruption adversely affect economic growth in Tunisia? ARDL approach, Journal of Money Laundering Control, 23(1), 38–54, https://doi.org/10.1108/JMLC-12-2018-0076-1.
7. Pesaran, M. H., Shin, Y ., Smith, R. J. (199), Pooled Mean Group Estimation of Dynamic Heterogeneous Panels, Journal f the American Statistical Association, 94(6), 621-634
8. S.Aidt, T. (2009), Corruption, institutions, and economic development, Oxford Review of Economic Policy, 25(2), 271–291. https://doi.org/10.1093/oxrep/grp012.
9. Spyromitros, E., & Panagiotidis, M. (2022), The impact of corruption on economic growth in developing countries and a comparative analysis of corruption measurement indicators, Cogent Economics & Finance, 10(1), 2129368.
10. Thùy Dương và Ngọc Trâm (2016), Thể chế chính trị các nước ASEAN, truy cập từ https://nghiencuuquocte.org/2016/12/14/infographic-che-chinh-tri-asean-p1/#.
11. http://www.transparency.org.
Ngày nhận bài: 20/12/2024; Ngày phản biện: 30/12/2024; Ngày duyệt đăng: 23/01/2025 |
Bình luận