Đây là nhận định của bà Nguyễn Minh Thảo, đại diện nhóm nghiên cứu Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tại Hội thảo Thúc đẩy cải cách quản lý, kiểm tra chuyên ngành: Vấn đề và kiến nghị, do CIEM phối hợp với Dự án GIZ tổ chức vào ngày 16/9 tại Hà Nội.

Toàn cảnh Hội thảo

Có sự chuyển biến trong cải cách hoạt động quản lý, kiểm tra chuyên ngành

Phát biểu khai mạc, ông Phan Đức Hiếu, Phó Viện trưởng CIEM cho biết, hội thảo nhằm đánh giá kết quả hoạt động cải cách về quản lý, kiểm tra chuyên ngành trong thúc đẩy giao dịch thương mại qua biên giới. Đồng thời, nhận diện những vướng mắc, khó khăn của doanh nghiệp trong thực thi quy định, thủ tục làm tăng chi phí, tăng rủi ro cho doanh nghiệp, cũng như những khó khăn của doanh nghiệp do tác động của dịch bệnh Covid-19 và sự kỳ vọng của doanh nghiệp vào những cải cách của Chính phủ về môi trường kinh doanh.

Báo cáo về những kết quả cải cách hoạt động quản lý, kiểm tra chuyên, bà Nguyễn Minh Thảo, đại diện nhóm nghiên cứu CIEM cho biết, yêu cầu về cải cách quản lý, kiểm tra chuyên ngành là mục tiêu trọng tâm, được nêu tại nhiều nghị quyết của Chính phủ và thể hiện rõ qua các hiệp định thương mại tự do, đặc biết là ở các hiệp định thương mại tự do mới đều dành các chương riêng thể hiện các yêu cầu và nguyên tác về thủ tục hải quan và tạo thuận lợi thương mại.

Theo đó, cải cách hoạt động quản lý, kiểm tra chuyên ngành đã đạt được một số kết quả tích cực, số mặt hàng phải thực hiện quản lý, kiểm tra chuyên ngành đã giảm từ 100.000 (năm 2015) xuống còn 78.000, tỷ lệ các lô hàng xuất - nhập khẩu phải kiểm tra chuyên ngành tại giai đoạn thông quan chỉ còn 19,4%. Bên cạnh đó, tính đến tháng 6/2020 đã có 13 bộ, ngành tham gia kết nối với 198 thủ tục hành chính qua Cơ chế một cửa quốc gia.

Bà Nguyễn Minh Thảo cho rằng, những kết quả trên phần nào thể hiện sự chuyển biến trong cải cách về quản lý, kiểm tra chuyên ngành.

Tuy nhiên, vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra

Theo bà Nguyễn Minh Thảo, mặc dù có sự chuyển biến trong cải cách về quản lý, kiểm tra chuyên ngành, nhưng những thay đổi trên vẫn còn quá ít so với yêu cầu của Chính phủ và sự kỳ vọng của cộng đồng doanh nghiệp. Những vướng mắc, bất cập về quy định, thủ tục trong quản lý, kiểm tra chuyên ngành vẫn đang là rào cản, gây tốn kém thời gian và chi phí của doanh nghiệp.

Đại diện nhóm nghiên cứu của CIEM cho biết, sau gần 2 năm, số lượng văn bản về quản lý, kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã tăng lên hơn 120 văn bản, điều này đã gây khó khăn, lúng túng cho cả doanh nghiệp và cơ quan hải quan trong việc theo dõi, cập nhật và áp dụng.

Cùng với đó, chất lượng văn bản còn chưa cao, thường xuyên thay đổi, điều chỉnh cũng dẫn tới khó khăn cho doanh nghiệp.

Bên cạnh một số quy định đã tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, nhưng có văn bản gây trở ngại hơn. Thậm chí có quy định ở văn bản mới còn mâu thuẫn và trái ngược với quy định của pháp luật hiện hành.

Ngoài ra, tỷ lệ lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu không đạt yêu cầu. Bà Thảo dẫn chứng, theo số liệu của Tổng cục Hải quan, tỷ lệ lô hàng (tờ khai) xuất - nhập khẩu không đạt yêu cầu từ năm 2017 đến tháng 10/2019 trên 3 lĩnh vực, gồm: kiểm dịch, kiểm tra chất lượng và kiểm tra an toàn thực phẩm là rất thấp, gần như không đáng kể. Cụ thể, hàng hóa nhập khẩu là 0%-0,27%; hàng hóa xuất khẩu là 0%.

Bên cạnh đó, nhiều lĩnh vực quản lý, kiểm tra chuyên ngành chưa áp dụng đầy đủ nguyên tắc “quản lý rủi ro” trên cơ sở mức độ tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp và mức độ rủi ro của hàng hóa theo chỉ đạo của Chính phủ.

Về thời gian và chi phí thực hiện thủ tục quản lý, kiểm tra chuyên ngành, bà Thảo cho hay, tuy thời gian và chi phí thực hiện đã giảm hơn trước, những vẫn còn dài, dẫn tới nhiều rủi ro cho doanh nghiệp. Đồng thời, chưa cắt giảm chi phí theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng về cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp.

Theo kết quả Doing Business 2020 của Word Bank, thời gian và chi phí thực hiện thủ tục quản lý, kiểm tra chuyên ngành ở Việt Nam vẫn cao so với các nước trong khu vực ASEAN, đặc biệt là so với Thái Lan và Singapore.

Một bất cập khác, đó là về danh mục mặt hàng quản lý, kiểm tra chuyên ngành, bởi đối tượng rộng (78.000 mặt hàng); có mặt hàng chưa đầy đủ mã hồ sơ hoặc chưa đầy đủ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.

Việc quản lý sản phẩm, hàng hóa cũng đang có sự chồng chéo, hiện có khoảng 25 nhóm sản phẩm, hàng hoá tương đương với 1.012 dòng hàng tính theo mã số hồ sơ ở cấp độ 8 chữ số và tương ứng với 1.501 mặt hàng được chi tiết theo tên hàng cụ thể còn chồng chéo trong thực hiện thủ tục quản lý, kiểm tra chuyên ngành.

Nhiều kiến nghị từ cộng đồng doanh nghiệp

Tại hội thảo, đại diện các hiệp hội doanh nghiệp đã nêu những khó khăn, vướng mắc mà các cộng đồng doanh nghiệp đang gặp phải. Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (VASEP) cho rằng, cộng đồng doanh nghiệp luôn mong muốn chung tay để giảm thủ tục kiểm tra chuyên ngành, nhưng trong nhiều năm qua các thủ tục kiểm tra chuyên ngành chỉ có tăng không có giảm.

Ông Nam cho biết, thời gian qua, nhiều doanh nghiệp ngành thủy sản đã phản ánh những vướng mắc trong quy định đăng ký sử dụng mã số mã vạch nước ngoài trên bao bì các lô thuỷ sản xuất khẩu. Cụ thể, thủ tục đăng ký sử dụng mã số mã vạch nước ngoài đòi hỏi nhiều giấy tờ, hồ sơ khó xin được từ khách hàng, phải nộp trực tiếp tại hải quan, không được làm trực tuyến, nên doanh nghiệp mất rất nhiều thời gian và nhiều khi không đủ hồ sơ theo yêu cầu của GS1 (hệ thống tiêu chuẩn). Điều này dẫn tới doanh nghiệp tốn nhiều thời gian, chi phí, thậm chí bị cơ quan hải quan xử phạt hành chính do không xin được giấy xác nhận của GS1.

Do vậy, VASEP kiến nghị bỏ quy định này trong dự thảo Thông tư ghi nhãn điện tử, đồng thời, sửa đổi Nghị định số 74/2018/NĐ-CP, ngày 15/05/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 132/2008/NĐ-CP, ngày 31/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa để hủy bỏ quy định mã số mã vạch nước ngoài trong Nghị định.

Cùng với đó, các doanh nghiệp thủy sản hiện nay đang vướng mắc về áp dụng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo Thông tư số 96/2015/TT-BTC. Do đó, các doanh nghiệp kiến nghị sửa đổi quy định để được hưởng mức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.

Ngoài ra, Phó Tổng thư ký VASEP cho rằng, mức phí công đoàn thu hiện nay quá cao và việc thu phí công đoàn chưa công bằng với các tổ chức xã hội khác. Trong khi đó, tài sản công đoàn hình thành từ nguồn đóng góp của đoàn viên công đoàn không phục vụ lại cho công đoàn viên. Do vậy, VASEP cũng kiến nghị giảm mức đóng phí công đoàn theo quỹ lương của người sử dụng lao động từ mức 2% xuống còn 1%.

Đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (Eurocham) cho biết, mong muốn vấn đề HS (Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa) được làm rõ, nhất là về vấn đề dinh dưỡng. Theo đại diện Eurocham, nhiều văn bản hướng dẫn mâu thuẫn, nhóm thực phẩm chức năng bao gồm cả thực phẩm dinh dưỡng y tế, trong khi nhóm này thuộc nhóm khác, dẫn tới thuế suất chênh lệnh nhau, khó cho cả doanh nghiệp và hải quan khi thực thi.

Eurocham kiến nghị, Tổng cục Hải quan nên có sự thống nhất với các bộ ngành trong việc phân loại để tính thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc xuất - nhập khẩu.

Còn đại diện Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam (Amcham) cũng nêu những bất cập trong quy định về mã số mã vạch tại Nghị định số 74/2018/NĐ-CP và có kiến nghị đối với Dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định số 43/2017/NĐ-CP về nhãn hàng hoá và dự thảo Thông tư Quy định về việc thể hiện một số nội dung ghi nhãn bắt buộc theo phương thức điện tử.

Bên cạnh những vướng mắc và kiến nghị của các hiệp hội, bà Nguyễn Minh Thảo đề xuất, trong thời gian tới, cần tiếp tục coi trọng cải cách, đơn giản hoá, tạo sự minh bạch trong quy định, thủ tục; tiếp tục thực hiện cải cách quản lý, kiểm tra chuyên ngành phù hợp với thông lệ quốc tế tốt và yêu cầu của các hiệp định thương mại tự do.

Đồng thời, kiến nghị Chính phủ yêu cầu các bộ trưởng chỉ đạo sát sao việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại các nghị quyết liên quan tới cải cách quản lý, kiểm tra chuyên ngành.

Song song với đó, tăng cường đối thoại với doanh nghiệp, giải quyết triệt để các vấn đề; thực hiện các đánh giá độc lập; khuyến khích cộng đồng doanh nghiệp chia sẻ và tham gia thảo luận chính sách./.