PGS, TS. Nguyễn Viết Thái

Giảng viên Khoa Khách sạn - Du lịch, Trường Đại học Thương mại

Có Gứ Mờ, Nguyễn Quỳnh Hương, Nguyễn Hà Khánh Ly, Tống Thị Phương Loan

Sinh viên Khoa Khách sạn-Du lịch, Trường Đại học Thương mại

Tóm tắt

Trong những thập kỷ gần đây, trước sự thay đổi mạnh mẽ trong lựa chọn cách thức đi du lịch của du khách, du lịch trải nghiệm đang trở thành chủ đề được các nhà nghiên cứu quan tâm. Thông qua dữ liệu khảo sát 303 khách du lịch nội địa và quốc tế đam mê khám phá, yêu thích những hoạt động trải nghiệm tại Bát Xát, mục tiêu của nghiên cứu này là xác định và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của du lịch trải nghiệm bền vững tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Kết quả nghiên cứu đã xác định được 4 yếu tố tác động tới sự phát triển của du lịch trải nghiệm bền vững gồm: (1) Tài nguyên du lịch, (2) Cơ sở hạ tầng, (3) Sự tham gia và hợp tác của các bên liên quan, (4) Thái độ và hành vi của khách du lịch. Những phát hiện này là cơ sở để đề xuất một số hàm ý cho các tổ chức quản lý điểm đến, doanh nghiệp du lịch và các bên liên quan khác nhằm thúc đẩy hiệu quả hơn việc phát triển du lịch trải nghiệm tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam nói chung và huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai nói riêng.

Từ khóa: du lịch trải nghiệm, phát triển du lịch bền vững, RBV-RBT; TSH; TBL; SEM

Summary

In recent decades, with the drastic change in the choice of travel methods of tourists, experiential tourism has become a topic of interest to researchers. Through survey data of 303 domestic and international tourists who are passionate about exploring and love experiential activities in Bat Xat, this study aims to identify and analyze factors affecting the development of sustainable experiential tourism in Bat Xat District, Lao Cai Province. The research results have identified 4 factors affecting the development of sustainable experiential tourism, including (1) Tourism resources, (2) Infrastructure, (3) Participation and cooperation of stakeholders, and (4) Attitudes and behaviors of tourists. These findings are the basis for proposing several implications for destination management organizations, tourism businesses, and other stakeholders to promote more effectively the development of experiential tourism in the northern mountainous provinces of Vietnam in general and Bat Xat District, Lao Cai Province in particular.

Keywords: experiential tourism, sustainable tourism development, RBV-RBT; TSH; TBL; SEM

GIỚI THIỆU

Du lịch được coi là một trong những hoạt động không thể thiếu trong cuộc sống. Với xu hướng phát triển hướng tới bền vững về mọi mặt như hiện nay, du lịch trải nghiệm ngày càng được coi trọng và phát triển mạnh mẽ trên thế giới bởi nhu cầu khám phá, trải nghiệm, hơn nữa là quá trình tương tác sâu sắc giữa du khách với văn hóa, cộng đồng, môi trường của điểm đến đồng thời góp phần hướng tới các giá trị bền vững. (Pine và Gilmore, 1998) nhấn mạnh rằng trải nghiệm không chỉ mang lại giá trị tinh thần mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng mối quan hệ lâu dài giữa doanh nghiệp và khách hàng. Trong lĩnh vực du lịch, du lịch trải nghiệm không chỉ đơn thuần là một sản phẩm mà còn mang tính toàn diện, giúp nâng cao sự hài lòng của du khách. Các trải nghiệm sâu sắc có thể thúc đẩy du khách hiểu biết và trân trọng hơn các giá trị văn hóa, tự nhiên tại điểm đến, đồng thời nâng cao ý thức bảo tồn những giá trị đó. (UNWTO, 2015) cũng khẳng định du lịch trải nghiệm đóng vai trò quan trọng trong bảo tồn văn hóa, tạo cơ hội kinh tế và việc làm cho cộng đồng địa phương thông qua các hoạt động du lịch có trách nhiệm. Bên cạnh đó, nghiên cứu của (Paolo, Giordano, Montacchini và Tedesco, 2020) cho thấy du lịch trải nghiệm có tiềm năng lớn trong việc phát triển các sản phẩm du lịch sáng tạo, khuyến khích sự tham gia của du khách vào các hoạt động đặc trưng của địa phương. Các hoạt động này không chỉ bảo vệ tài nguyên văn hóa, tự nhiên mà còn mang lại lợi ích kinh tế - xã hội thông qua đổi mới và sáng tạo trong thiết kế sản phẩm du lịch.

Bát Xát là địa bàn có nguồn tài nguyên du lịch thiên nhiên, văn hóa phong phú và đa dạng, tạo điều kiện lý tưởng cho phát triển du lịch trải nghiệm đồng thời tạo ra những sản phẩm du lịch bền vững và mang lại lợi ích lâu dài cho cộng đồng địa phương. Với mục tiêu hướng đến năm 2050, định hướng phát triển du lịch huyện Bát Xát trong thời gian tới không chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế, mà còn hướng đến sự phát triển cân bằng giữa bảo tồn văn hóa, khai thác tài nguyên thiên nhiên bền vững và nâng cao chất lượng trải nghiệm du lịch của du khách ghé thăm. Vì vậy, việc xác định và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của du lịch trải nghiệm bền vững tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy loại hình du lịch này tại huyện Bát Xát.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý thuyết

Khái niệm và bản chất du lịch trải nghiệm

Những năm gần đây, loại hình du lịch trải nghiệm mang tính cá nhân hóa và sự sâu sắc về văn hóa, thiên nhiên, con người tại nơi đến ngày càng được đề cao và nhận được sự chú ý từ giới học giả. (Cohen, 1979) cho rằng, du khách không chỉ tiêu thụ và sử dụng các sản phẩm du lịch mà còn tìm kiếm sự tham gia trực tiếp vào các hoạt động mang tới trải nghiệm và các khoảnh khắc đặc biệt tại điểm đến. Du lịch với du khách giờ còn là một hành trình tìm kiến những trải nghiệm có giá trị tinh thần sâu sắc (Urry, 1990). Sự xuất hiện của mô hình hình Strategic Experiential Modules (SEMs) (Schmitt, 1999) càng cho thấy các nhà nghiên cứu đã cố gắn trong việc nghiên cứu các phương hướng để phát triển loại hình du lịch này trong tương lai nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Vì vậy, có thể rút ra được khái niệm về du lịch trải nghiệm như sau: du lịch trải nghiệm là một loại hình du lịch cho phép du khách kết nối sâu sắc với thiên nhiên, văn hóa và cộng đồng dân cư tại điểm, từ đó có những khám phá mới, tạo ra những khoảnh khắc đáng nhớ trong hành trình, hình thành những chuyến đi vơi các trải nghiệm mang tính cá nhân cao và ý nghĩa.

Về bản chất của du lịch trải nghiệm, đây là loại hình du lịch có thể bao hàm được gần như toàn bộ các loại hình du lịch khác, từ du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch mạo hiểm, du lịch thông minh… do loại hình du lịch này có thể đáp ứng và thỏa mãn hầu hết các nhu cầu mà du khách mong muốn trong một chuyến đi. Du lịch trải nghiệm là một hình thức du lịch linh hoạt cho phép du khách dựa trên sở thích mà lựa chọn cũng như kết hợp các hoạt động trong chuyến đi của mình.

Các yếu tố phát triển du lịch trải nghiệm bền vững

Thứ nhất, các tài nguyên du lịch (tài nguyên tự nhiên và tài nguyên văn hóa) đóng vai trò quan

trọng trong phát triển du lịch nói chung và du lịch trải nghiệm nói riêng. Chúng đóng vai trò là “nguyên liệu đầu vào” của các sản phẩm du lịch, đồng thời tạo nên các trải nghiệm chất lượng, hấp dẫn và mang tính riêng biệt cho du khách, nâng cao lợi thế cạnh tranh của điểm đến. Dựa theo quan điểm dựa trên nguồn lực (RBV) và lý thuyết dựa trên nguồn lực (RBT) của Penrose (2009), có thể hiểu cách thức mà tài nguyên tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững cho điểm đến du lịch. Tài nguyên du lịch được (Cooper, 2016) coi như yếu tố tác động trực tiếp đến sự hấp dẫn của điểm đến cũng như định hướng phát triển của nó. Tài nguyên du lịch có thể được chia làm hai phân loại là tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa với vai trò quan trọng trong hình thành sản phẩm du lịch, tạo nên sức hấp dẫn cũng như khả năng cạnh tranh của địa phương. Các tài nguyên tự nhiên như cảnh quan thiên nhiên, khí hậu và hệ sinh thái đa dạng có vai trò quan trọng trong việc thu hút khách du lịch, trong khi tài nguyên văn hóa, bao gồm di sản văn hóa, truyền thống và phong tục tập quán địa phương, cũng là những điểm mạnh có thể hình thành các trải nghiệm độc đáo và cá nhân hóa (Barney, 1991). Bổ sung thêm, Boo (2017) khẳng định, nếu tận dụng hiệu quả các tài nguyên này không những cải thiện sự hài lòng của du khách mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của điểm đến. Nghiên cứu của (Crouch và Ritchie, 2000) cũng chỉ ra “Việc quản lí và phát triển tài nguyên du lịch có chiến lược sẽ nâng cao giá trị trải nghiệm cho du khách, đồng thời hỗ trợ địa phương trong việc duy trì và bảo tồn các giá trị văn hóa và tự nhiên”. Những điều này khẳng định tài nguyên du lịch là nền tảng quan trọng cho phát triển du lịch trải nghiệm bền vững trong bối cảnh toàn cầu hiện nay.

Thứ hai, về cơ sở hạ tầng, đây là điều kiện vật chất cần thiết, đồng thời được coi là tài sản chiến lược trong phát triển nói chung và phát triển du lịch nói riêng trong việc tạo lợi thế cạnh tranh cho khu vực. Dựa theo thuyết RBV – RBT, đây được coi là một nguồn lực hữu hình để phát triển điểm đến. (Rubies, 2001) cho rằng, một điểm du lịch hấp dẫn phải thỏa mãn được các nguồn lực về du lịch, các yếu tố thu hút, cơ sở hạ tầng, thiết bị… để có thể cung cấp trải nghiệm mong đợi của khách hàng. Hạ tầng cơ sở giao thông, cơ sở lưu trú được đảm bảo ảnh hưởng lớn đến khả năng tiếp cận của du khách cũng như các giá trị trải nhiệm của họ trong hành trình (Wang và Davidson, 2010). Điều đó cho thấy, cơ sở hạ tầng đóng vai trò quan trọng trong phát triển du lịch nói chung và du lịch trải nghiệm bền vững nỏi riêng. Đầu tư vào cơ sở vật chất hạ tầng một mặt giúp cải thiện chất lượng dịch vụ, mặt khác còn nâng cao sự hài lòng và lòng trung thành của du khách (Ritchie và Crouch, 2003). Thông thường, cơ sở hạ tầng của điểm đến được thể hiễn rõ qua sự đầy đủ của “Dịch vụ giải trí, bãi đậu xe, hệ thống cảnh báo, cứu hộ…” (Trương Trí Thông và Nguyễn Trọng Nhân, 2019) nhằm phục vụ tối đa các nhu cầu của du khách. Bên cạnh đó, các cơ sở lưu trú cũng cần được đảm bảo về chất lượng cũng như khả năng đón khách. Sự phát triển đồng bộ của cơ sở vật chất hạ tầng có tác động lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững, bảo tồn các giá trị văn hóa, môi trường cũng như nâng cao lợi thế cạnh tranh cho điểm đến (Cooper, Fletcher, Fyall, Gilbert, 2005). Những nghiên cứu về sự tác động của cơ sở vật chất hạ tầng ảnh hưởng đến du lịch của Bourdeau (2009) và Boujrouf và cộng sự (1998) tại dãy Alps và Himalaya càng củng cố việc đầu tư về cơ sở vật chất hạ tầng là điều tiên quyết để phát triển du lịch tại các vùng núi khó tiếp cận. Khẳng định cho kết luận trên, Crouch và Ritchie (2000) lập luận việc quy hoạch và phát triển du lịch sẽ gần như không có khả năng nếu hạ tầng cơ sở không ổn định. Các nhận định trên một lần nữa khẳng định cơ sở vật chất và hạ tầng không chỉ đóng vai trò yếu tố đầu vào mà chúng còn là nguồn lực mang tính chiến lược, quyết định đến sự thành công của quá trình phát triển du lịch trải nghiệm bền vững và các khu vực với địa hình phức tạp.

Từ đây, nhóm nghiên cứu đề xuất các giả thiết sau:

H1: Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên văn hóa có tác động tích cực đến Phát triển du lịch trải nghiệm bền vững.

H2: Cơ sở hạ tầng du lịch có tác động tích cực đến Phát triển du lịch trải nghiệm bền vững.

Thứ ba, sự phối hợp có hiệu quả giữa các bên liên quan trong quản lý và phát triển điểm đến du lịch có ảnh hưởng tới phát triển du lịch trải nghiệm bền vững. Freeman (1984) nhấn mạnh rằng, các bên liên quan cần được xem xét và tham gia vào quá trình xây dựng, quy hoạch điểm đến, đảm bảo lợi ích của các bên này được đảm bảo và phát huy, gia tăng sự phối hợp hiệu quả giữa họ. Theo nội dung được đề cập bên trên, các bên liên quan chính có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng quy hoạch phát triển du lịch trải nghiệm bao gồm: Chính quyền địa phương; Doanh nghiệp; Cộng đồng địa phương và Các tổ chức phi chính phủ (NGOs). Với bối cảnh phát triển du lịch trải nghiệm bền vững, sự phối hợp giữa các bên này không chỉ cần thiết để đảm bảo sự phát triển lâu dài mà còn xây dựng mô hình du lịch trải nghiệm bền vững hiệu quả, mang lại lợi ích cho tất cả các bên. Trong hoạt động du lịch, đặc biệt là du lịch trải nghiệm, cộng đồng bản địa, chính quyền địa phương cũng như các doanh nghiệp du lịch và sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ cần tham gia phối hợp chặt chẽ để xây dựng môi trường du lịch phát triển và bảo tồn hiệu quả các giá trị văn hóa, tài nguyên thiên nhiên đồng thời đem lại lợi ích cho các bên. Erick (2007) khẳng định, các bên liên quan cần phối hợp chặt chẽ để phát triển các chiến lược phù hợp hướng đến lợi ích kinh tế đồng thời hỗ trợ bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và phát huy giá trị văn hóa, từ đó thúc đẩy phát triển du lịch trải nghiệm hướng tới bền vững.

Nhìn nhận theo góc độ khác, theo thuyết RBV – RBT, sự lãnh đạo, tầm nhìn và chiến lược của chính quyền quản lý điểm đến cùng hệ thống kế hoạch, kiểm soát và phối hợp, quan hệ giữa các nhóm trong điểm đến du lịch với môi trường bên ngoài được coi là một yếu tố thuộc về nguồn lực vô hình nhằm tạo ra các lợi thế cho điểm đến cũng như tối đa các trải nghiệm cá nhân của du khách. Đây cũng chính là một nguồn lực mang tính độc đáo để tạo sự cạnh tranh cho điểm đến dựa cào tầm nhìn, chiến lược và các kế hoạch đề ra. Ngoài ra, kinh nghiệm, trí thông minh, các mối quan hệ, đặc tính của nhà quản lý và người làm du lịch tại điểm đến du lịch được coi là nguồn lực và được thể hiện rõ qua nhóm người dân bản địa cũng như các nhà quản lý. Điều này cũng trở thành một lợi thế cạnh tranh với các điểm đến khác dựa vào sự khác biệt đó. Tóm lại, các nghiên cứu đều nhấn mạnh việc phối hợp hiệu quả không chỉ giúp tối ưu hóa giá trị kinh tế mà còn bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa độc đáo của mỗi điểm đến. Sự gắn kết lâu dài của các bên này là nền tảng quan trọng để kiến tạo một mô hình du lịch trải nghiệm bền vững, toàn diện và phát triển mạnh mẽ trong tương lai.

Từ đây, nhóm đề xuất giả thiết sau:

H3: Sự tham gia và hợp tác của các bên liên quan (chính quyền địa phương, doanh nghiệp, dân cư địa phương và các tổ chức phi chính phủ) có tác động tích cực đến Sự phát triển du lịch trải nghiệm bền vững.

Thứ tư, thái độ và hành vi của du khách ảnh hưởng trực tiếp tới việc phát triển du lịch trải nghiệm bền vững. Nghiên cứu của Tung và Ritchie (2011) khẳng định: “Du lịch nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tham gia tích cực của khách du lịch vào trải nghiệm và những kết nối cảm xúc được hình thành với điểm đến”, các trải nghiệm, cảm xúc của du khách là các yếu tố cần được chú trọng và cần được thỏa mãn trong mỗi chuyến đi, điều này phù hợp với việc phát triển mô hình du lịch trải nghiệm bền vững khi loại hình này đề cao các trải nghiệm cá nhân của du khách, đồng tạo động lực để địa điểm du lịch được phát triển lâu dài. Từ đây có thể thấy thái độ và hành vi của khách du lịch có ảnh hưởng nhất định đến việc phát triển du lịch trải nghiệm. Bagozzi (2001) cho rằng, thái độ ảnh hưởng đến hành vi cá nhân qua sự đánh giá và thúc đẩy cảm xúc riêng. Về hành vi của khách du lịch, (Cohen, 1972) phát biểu chúng là "Tổng hợp các hoạt động, quyết định và tương tác diễn ra từ thời điểm cá nhân rời khỏi nhà cho đến khi họ trở về". Để phát triển mô hình du lịch trải nghiệm, thái độ của du khách cần được xem xét bởi thái độ của du khách dễ bị ảnh hưởng bởi hai yếu tố chính gồm “Các yếu tố chủ quan như tính độc đáo, tính tương tác và cơ hội học hỏi từ những trải nghiệm thực tế, cùng với các yếu tố khách quan như thời tiết, cảnh quan và văn hóa địa phương” (Gretzel, Fuchs, Baggio, và Hoepken, 2020). Thái độ tích cực của du khách gắn liền với mức độ hòa hợp cảm xúc và cảm giác thoải mái họ cảm nhận được khi tham gia vào các hoạt động trải nghiệm trong du lịch (Tan, Ojo, Thurasamy, 2019) Bên cạnh thái độ, hành vi của du khách cũng là một yếu tố đáng lưu tâm. (Kotler, 2000) trong nghiên cứu của mình chỉ rõ việc phân tích hành vi của du khách gồm “Các quyết định liên quan đến việc lựa chọn điểm đến, tham quan và tiêu dùng dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân” là cần thiết để phát triển bất cứ loại hình du lịch nào theo hướng lâu dài. Việc hiểu rõ thái độ và hành vi của khách du lịch không chỉ giúp các nhà quản lý phát triển sản phẩm du lịch, mà còn hỗ trợ trong việc thu hút khách hàng hiệu quả hơn, từ đó xây dựng các chiến lược phát triển cho mô hình du lịch trải nghiệm bền vững, tạo điều kiện cho du khách tiếp cận các hoạt động trải nghiệm đến phát triển các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của du khách. Từ đây, nhóm nghiên cứu đề xuất giả thiết sau:

H4: Thái độ và hành vi của khách du lịch có tác động tích cực đến Sự phát triển du lịch trải nghiệm bền vững.

Thứ năm, về phát triển du lịch trải nghiệm bền vững. Áp dụng thuyết Ba điểm mấu chốt (TBL) (Elkington, 1997) vào phát triển du lịch trải nghiệm bền vững, có thể thấy sự sự bền vững của một điểm đến được xác định bởi sự cân bằng giữa 3 trụ cột chính (Howie, 2003); (Dredge, Cox, Fisher, 2009); (Milman và Munt , 2015). Ba trụ cột này bao gồm: Bền vững về mặt sinh thái (Bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh học và giảm thiểu tác động tiêu cực của du lịch đến môi trường); Bền vững về mặt xã hội (Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng địa phương, đồng thời đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong quá trình phát triển du lịch); Bền vững về mặt kinh tế (tối ưu hóa lợi ích kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người dân địa phương, đồng thời đảm bảo sự phát triển bền vững về lâu dài). các điểm đến du lịch trải nghiệm không chỉ là nơi thu hút khách du lịch bởi vẻ đẹp tự nhiên và văn hóa độc đáo, mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững của văn hóa xã hội, sinh thái và kinh tế. Nói cách khác, phát triển du lịch trải nghiệm bền vững là một hướng đi đầy tiềm năng trong tương lai, một mặt nó đảm bảo kinh tế địa phương đi lên, mặt khác các hoạt động trải nghiệm giúp bảo tồn được các giá trị về văn hóa và tài nguyên tự nhiên từ điểm đến, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững của mọi ngành kinh tế nói chung và du lịch nói riêng.

Mô hình nghiên cứu đề xuất

Từ những giả thuyết nghiên cứu trên, nghiên cứu đề xuất mô hình nghiên cứu như Hình.

Hình: Mô hình nghiên cứu đề xuất

Phát triển du lịch trải nghiệm bền vững tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai
Nguồn: Nhóm nghiên cứu đề xuất

Phương pháp nghiên cứu

Thông qua tổng quan tài liệu nghiên cứu và việc phát hiện vấn đề cần nghiên cứu, nhóm tác đã kế thừa và phát triển 27 thang đo từ các công trình nghiên cứu uy tín trước đó nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng nhất tới sự phát triển du lịch trải nghiệm tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Để khắc phục hạn chế các vấn đề về ngôn ngữ dịch thuật trong việc tiếp cận các thang đo và nhằm kiểm tra sự phù hợp; đảm bảo độ tin cậy, nhóm tác giả đã tiến hành tham vấn ý kiến từ PGS, TS. Nguyễn Viết Thái - Trưởng Khoa Khách sạn - Du Lịch trường Đại học Thương mại. Ngoài ra, một cuộc khảo sát sơ bộ bao gồm hơn 50 mẫu đã được thực hiện để cải thiện cách diễn đạt của bảng hỏi và đảm bảo tính dễ hiểu cho đối tượng tham gia khảo sát. Cuối cùng, bảng câu hỏi được hoàn thiện với kết cấu 3 phần: (i) Giới thiệu mục đích bảng hỏi; (ii) Nội dung các câu hỏi và (iii) Thông tin nhân khẩu học. Thước đo Likert được sử dụng với 5 mức độ (mức 1: hoàn toàn không đồng ý, mức 5: hoàn toàn đồng ý).

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, phương pháp lấy mẫu phi ngẫu nhiên được sử dụng và thời gian thu thập dữ liệu kéo dài 4 tháng, từ tháng 9-12/2024. Tổng số 330 bảng hỏi đã được phân phối bằng cả 2 hình thức trực tiếp và gián tiếp qua ứng dụng Google Forms. Số liệu bảng hỏi hợp lệ thu về là 303, đạt tỷ lệ 91,82%.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Kiểm định thang đo bằng phân tích độ tin cậy Cronbach’s Alpha

Kiểm định độ tin cậy của thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha cho thấy, tất cả các biến quan sát gồm: Tài nguyên du lịch (TN); Cơ sở hạ tầng (CS); Các bên liên quan (CBLQ); Các bên liên quan (CBLQ) đều có giá trị > 0.7, đảm bảo độ tin cậy.

Phân tích nhân tố khám phá (EFA)

Kết quả phân tích dữ liệu từ lần chạy đầu tiên trên SPSS 26 cho thấy, tất cả các biến đều đáp ứng đủ các điều kiện đã nêu. Do vậy, nhóm nghiên cứu quyết định giữ lại 27/27 biến quan sát để đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy cho mô hình nghiên cứu.

Kết quả phân tích EFA của biến độc lập và biến phụ thuộc được trình bày trong Bảng 1, 2, 3, 4.

Với biến độc lập

Bảng 1: Kết quả kiểm định KMO và Bartlett các biến độc lập

Phát triển du lịch trải nghiệm bền vững tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai
Nguồn: Kết quả phân tích bằng SPSS của nhóm nghiên cứu

Bảng 2: Bảng ma trận xoay nhân tố các biến độc lập

Phát triển du lịch trải nghiệm bền vững tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai
Nguồn: Kết quả phân tích bằng SPSS của nhóm nghiên cứu

Với biến phụ thuộc

Bảng 3: Kết quả kiểm định KMO và Bartlett cho biến phụ thuộc

Phát triển du lịch trải nghiệm bền vững tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai
Nguồn: Kết quả phân tích từ SPSS của nhóm nghiên cứu

Bảng 4: Ma trận xoay nhân tố cho biến phụ thuộc

Phát triển du lịch trải nghiệm bền vững tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai
Nguồn: Kết quả phân tích từ SPSS của nhóm nghiên cứu
Phân tích hồi quy và kiểm định giả thuyết

Phân tích phát triển du lịch trải nghiệm bền vững tại Bát Xát

Bảng 5: Thống kê mô tả trung bình các giá trị

Phát triển du lịch trải nghiệm bền vững tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai
Nguồn: Kết quả phân tích từ SPSS của nhóm nghiên cứu

Kết quả phân tích ở Bảng 5 cho thấy, du khách có xu hướng đánh giá tích cực về tính bền vững của du lịch trải nghiệm tại Bát Xát, với điểm trung bình từ 3.64 đến 3.70. Độ lệch chuẩn từ 0.976 - 1.097 cũng chứng minh rằng, khách du lịch có xu hướng đồng nhất trong cách họ nhận định về mức độ tác động của phát triển du lịch trải nghiệm đối với sự bền vững của cả 3 thang đo này. Trong đó, đối với yếu tố bền vững về kinh tế, phát triển du lịch trải nghiệm giúp tạo việc làm ổn định cho các hộ kinh doanh du lịch cũng như chính những người dân địa phương từ đó giúp nâng cao chất lượng đời sống người dân cũng như góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của huyện Bát Xát nói riêng và tỉnh Lào Cai nói chung. Về mặt xã hội, du lịch tạo điều kiện để bảo tồn văn hóa, giúp du khách và cộng đồng hiểu và trân trọng hơn các giá trị độc đáo của địa phương từ đó tạo cơ sở thúc đẩy gắn kết xã hội và duy trì bản sắc dân tộc. Cuối cùng, môi trường cũng được hưởng lợi khi du lịch trải nghiệm khuyến khích bảo vệ thiên nhiên, giảm rác thải và khai thác tài nguyên một cách hợp lý, giữ gìn cảnh quan cho thế hệ sau.

Kiểm định độ phù hợp của mô hình hồi quy

Để đánh giá sự phù hợp của mô hình, nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp hồi quy tuyến tính bội với 4 biến độc lập được phân tích trên. Kết quả ở Bảng 6 cho thấy, giá trị R2 hiệu chỉnh là 0438; tức 4 biến độc lập sử dụng trong mô hình hồi quy ảnh hưởng đến 43.8% sự biến thiên của biến phụ thuộc, còn lại 56.2% là do ảnh hưởng của các biến ngoài mô hình và sai số ngẫu nhiên (Bảng 6).

Bảng 6: Kết quả phân tích hồi quy đa biến

Model

R

R2

R2 hiệu chỉnh

Sai số chuẩn

Durbin-Watson

1

.662a

.438

.431

.65137

2.066

Nguồn: Kết quả phân tích bằng SPSS của nhóm nghiên cứu

Phân tích hồi quy đa biến và kiểm định giả thuyết

Các biến được đưa vào cùng một lúc để chọn lọc dựa trên tiêu chí chọn những biến có mức ý nghĩa < 0.05. Với các biến có mức ý nghĩa > 0.05 lần lượt được loại ra khỏi mô hình. Sau khi chạy dữ liệu trên SPSS 26, kết quả phân tích hồi quy tuyến tính được thể hiện ở Bảng 7.

Bảng 7: Phân tích hồi quy và kiểm tra đa cộng tuyến

Nhân tố

Hệ số Beta

t

Sig.

VIF

Tài nguyên du lịch (TN)

.375

8.289

.000

1.084

Cơ sở hạ tầng (CS)

.267

5.899

.000

1.088

Các bên liên quan (CBLQ)

.273

6.015

.000

1.094

Thái độ và hành vi khách du lịch (TD)

.125

2.839

.005

1.028

Nguồn: Kết quả phân tích bằng SPSS của nhóm nghiên cứu

Như vậy không có hiện tượng đa cộng tuyến xảy và phương trình hồi quy thể hiện mối quan hệ giữa bốn biến độc lập (TN, CS, CBLQ, TD) và biến phụ thuộc (BV) là:

BV = 0.375*TN + 0.273*CBLQ + 0.267*CS + 0.125*TD + e

Từ hệ số Beta cho thấy, biến TN tác động mạnh nhất tới sự phát triển du lịch trải nghiệm bền vững của huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai; Biến CBLQ tác động mạnh thứ 2 tới sự phát triển du lịch trải nghiệm bền vững của huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai; Biến CS tác động mạnh thứ 3 tới sự phát triển du lịch trải nghiệm bền vững của huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai; Biến TD tác động yếu nhất tới sự phát triển du lịch trải nghiệm bền vững của huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý

Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 4 yếu tố có tác động tới Sự phát triển du lịch trải nghiệm bền vững của huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, được sắp xếp theo thứ tự tác động giảm dần như sau: Tài nguyên thiên nhiên; Các bên liên quan; Cơ sở hạ tầng, Thái độ và hành vi khách du lịch.

Hàm ý

Dựa trên kết quả nghiên cứu thực hiện về các yếu tố tác động đến sự phát triển du lịch trải nghiệm tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, nghiên cứu đề xuất một số hàm ý cụ thể như sau:

Về phía chính quyền địa phương: (i) Xây dựng các chính sách phát triển du lịch trải nghiệm, cần có các chính sách hỗ trợ xây dựng các cơ sở lưu trú, đường xá… Đồng thời, tạo điều kiện để người dân được tham gia vào du lịch; (ii) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cộng đồng về lợi ích và tác động của du lịch trải nghiệm, đồng thời tạo điều kiện để người dân địa phương tham gia vào các hoạt động du lịch; (iii) Tăng cường cơ sở hạ tầng để phục vụ du lịch.

Về phía các doanh nghiệp du lịch: (i) Chủ động xây dựng các sản phẩm du lịch trải nghiệm và cách thức tổ chức sản phẩm; (ii) Cần có sự hợp tác chặt chẽ với chính quyền địa phương trong việc bảo vệ môi trường và tài nguyên du lịch; (iii) Chú trọng phát triển các loại hình du lịch trải nghiệm gắn với cộng đồng địa phương.

Về phía người dân địa phương: (i) Nhận thức được tầm trọng của du lịch trải nghiệm đến lợi ích kinh tế của địa phương; (ii) Cần được chú trọng đào tạo hàng đầu bởi họ là những người trực tiếp tham ra và tạo ra sản phẩm du lịch trải nghiệm cho du khách./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bagozzi, R. (2001), The role of desires and anticipated emotions in goal-directed behaviours: Broadening and deepening the theory of planned behaviour. British Journal of Social Psychology, 40(1), 79–98.

2. Barney, J. B. (1991). Special theory forum the resource-based model of the firm: origins, implications, and prospects. Journal of management, 17(1), 97-98. .

3. Boo (2017). Ecotourism: The Potentials and The Pitfalls.

4. Boujrouf, S., et al. (1998). Développement du tourisme rural et valorisation des produits de terroir : La Rose de Mgouna-Dadès. Atelier Professionnel Master 2, Étude du Développement 2017, Rapport Final du Voyage d'Étude au Maroc.

5. Bourdeau , P. (2009). Examining innovation in the Alps at the local scale. Journal of Alpine Research, 97(1).

6. Cohen, E. (1972). Toward a sociology of international tourism. Social Research, 39(1), 164–182.

7. Cohen, E. (1979). A Phenomenology of Tourist Experiences. Sociology, 13(2), 179-201.

8. Cooper, C., Fletcher, J., Fyall, A., & Gilbert, D. (2005). Tourism principles and practice. 3rd edn. Pearson Education Publisher.

9. Cooper, M. I. (2016). (2016). Sexual conflict over the duration of copulation in Centrobolus inscriptus (Attems). Journal of Entomology and Zoology Studies, 4(6), 852-854.

10. Crouch, G. I., & Ritchie, J. R. (2000). The competitive destination: A sustainable tourism perspective. Tourism Management, 21(1), 1-7.

11. Dredge, Cox, & Fisher. (2009). 2008 to 2018 Tourism management plan, Byron shire tourism management plan.

12. Elkington, J. (1997). The triple bottom line. Environmental management: Readings and cases, 2, 49-66.

13. Erick , T. (2007). Stakeholders in sustainable tourism development and their roles: Applying stakeholder theory to sustainable tourism development, Tourism Review, 62(2), 6-13.

14. Freeman, R. (1984). Strategic management: A stakeholder approach. Pitman Publishing, 7, 01–107.

15. Gretzel, U., Fuchs, M., Baggio, R., Hoepken, W. (2020). E-tourism beyond COVID-19: A call for transformative research. Information Technology & Tourism, 22(2), 187–203.

16. Howie, F. (2003). Managing the tourist destination, London, New York: Continuum.

17. Jago, L.V. (2003), Building events into destination branding: Insights from experts. Event management, 8(1), 3-14.

18. Kotler, P. (2000). Marketing management: The millennium edition. Pearson Prentice Hall.

19. Milman, M., Munt , I. (2015). Tourism and sustainability: Development, globalisation and new tourism in the third world. Routledge.

20. Paolo, C. P., Giordano, R., Montacchini, E., Tedesco (2020). Experiential Tourism: Research, experimentation and innovation, Publishing Series in PROJECT | Essays and Researches.

21. Penrose, E.T. (2009). The theory of the growth of the firm, 4th Edition, Oxford University Press, Oxford.

22. Penrose, R. (1960). A spinor approach to general relativity. Annals of Physics, 10(2), 171-201.

23. Pine, Gilmore. (1998). Welcome to the Experience Economy, retrieved from https://hbr.org/1998/07/welcome-to-the-experience-economy.

24. Ritchie, J.R.B. and Crouch, G.I. (2003), The Competitive Destination: A Sustainable Tourism Perspective. CABI Publishing, Wallingford.

25. Rubies, E. (2001). Improving public-private sectors cooperation in tourism: A new paradigm for destinations. Tourism Review, 56 (3/4), 38-41. https://doi.org/10.1108/eb058369.

26. Schmitt, B.H. (1999), Experiential Marketing. Journal of Marketing Management, 15, 53-67.

27. Tan, C., Ojo, A., Thurasamy, R. (2019). Determinants of green product buying decision among young consumers in Malaysia. Young Consumers, 20(2), 102–121.

28. Trương Trí Thông, Nguyễn Trọng Nhân (2019). Đánh giá của du khách đối với sự phát triển du lịch biển đảo bền vững ở huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang, Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Địa lý Toàn Quốc - Khoa học Địa lý Việt Nam phục vụ phát triển bền vững trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, ngày 22/4/2019, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế, Nxb Thanh niên.

28. Tung, V., Ritchie, J. (2011). Investigating the memorable experiences of the senior travel market: An examination of the reminiscence bump. Journal of Travel & Tourism Marketing, 28(3), 331–343.

29. UNWTO (2015). UN General Assembly: Sustainable tourism is a tool for poverty reduction and environmental protection, retrieved from https://www.unwto.org/archive/global/press-release/2015-01-14/un-general-assembly-sustainable-tourism-tool-poverty-reduction-and-environm

30. Urry, J. (1990), The Tourist Gaze: Leisure and Travel in Contemporary Societies, retrieved from https://journals.sagepub.com/doi/abs/10.1177/003803857901300203

31. Wang, Y., Davidson, M. (2010). A review of micro-analyses of Expenditure, Current Issues In Tourism, 13(6).

Ngày nhận bài: 06/01/2025; Ngày phản biện: 20/01/2025; Ngày duyệt đăng: 24/02/2025