Ảnh hưởng của thời vụ đến khả năng sản xuất hạt giống của Sâm Bố Chính tại xã Mường Hum, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai*
Nguyễn Thị Lan Anh
Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Thị Xuyến
Trường Đại học Nông lâm - Đại học Thái Nguyên
Tóm tắt
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định ảnh hưởng của thời vụ đến khả năng sản xuất hạt giống của Sâm Bố Chính trên địa bàn xã Mường Hum, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Kết quả nghiên cứu dựa trên phân tích 3 khía cạnh: Ảnh hưởng của thời vụ đến sinh trưởng của cây Sâm Bố Chính sản xuất hạt giống; Ảnh hưởng của thời vụ đến khả năng chống chịu sâu bệnh hại của cây Sâm Bố Chính; Ảnh hưởng của thời vụ đến năng suất, chất lượng hạt giống cây Sâm Bố Chính. Kết quả nghiên cứu cho thấy, thời vụ tốt nhất để thu được hạt giống chất lượng cùng với năng suất cao nhất là tháng 01 xuống giống; tháng 4-5 cây ra hoa, đậu quả; tháng 7-8 thu hoạch hạt giống. Kết quả nghiên cứu góp phần hoàn thiện quy trình trồng và phát triển Sâm Bố Chính trong điều kiện tự nhiên của xã Mường Hum, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, nhằm tạo sinh kế cho người dân và tạo ra giá trị kinh tế cao.
Từ khóa: Sâm Bố Chính, ảnh hưởng của thời vụ, khả năng sản xuất hạt giống, xã Mường Hum, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai
Summary
The study is conducted to determine seasonality's impact on Bo Chinh Ginseng's seed production capacity in Muong Hum Commune, Bat Xat District, Lao Cai Province. The research results are based on the analysis of 3 aspects: The impact of seasonality on the growth of Bo Chinh Ginseng for seed production; The impact of seasonality on the resistance to pests and diseases of Bo Chinh Ginseng; The impact of seasonality on the yield and quality of Bo Chinh Ginseng seeds. The research results show that the best season to obtain quality seeds with the highest yield is January for sowing; April-May for flowering and fruiting; and July-August for seed harvesting. The research results contribute to the completion of planting and developing Bo Chinh Ginseng in the natural conditions of Muong Hum Commune, Bat Xat District, Lao Cai Province, to create livelihoods for people and create high economic value.
Keywords: Bo Chinh ginseng, seasonal influence, seed production capacity, Muong Hum Commune, Bat Xat District, Lao Cai Province
GIỚI THIỆU
Sâm Bố Chính có tên khoa học là Abelmoschus Aagittifolius L. Merr. Cây Sâm Bố Chính đã được đánh giá là một vị thuốc và ghi nhận trong cuốn sách “Những cây thuốc vị thuốc Việt Nam” của Giáo sư Đỗ Tất Lợi (1977). Giá trị nổi bật của Sâm Bố Chính là phần rễ củ có thể sử dụng làm thuốc, hiện rất có giá trị thương mại trên thị trường quốc nội. Sâm Bố Chính có vị ngọt nhạt, có chất nhầy, tính bình, có tác dụng bổ mát, nhuận phế, dưỡng tâm, sinh tân dịch, sao với gạo, thì tính ấm bổ tỳ vị, giúp tiêu hóa, tăng thêm sức dẻo dai. Ngoài ra, Sâm Bố Chính phối hợp với các vị thuốc khác để chữa các chứng ho, sốt nóng, trong người khô, táo bón, khát nước, gầy còm và tăng cường thể lực rất công hiệu. Tuy nhiên, hiện nay loại sâm này đang bị thu hái quá mức và chất lượng không đảm bảo. Việc gây trồng và phát triển gặp nhiều khó khăn do nguồn hạt giống ngày đòi hỏi tốt hơn về chất lượng. Hơn nữa, kỹ thuật gieo ươm còn hạn chế, mặt khác hạt đem gieo có tỷ lệ nảy mầm thấp và không đều có thể do ảnh hưởng của quá trình chuyên chở dài ngày trong quá trình nhập giống (Võ Văn Chi, 1997).
Các loài trong chi Abelmoschus phân bố hầu hết các nước trên thế giới. Trong đó, có loài Sâm Bố Chính thấy phân bố ở khu vực châu Á và Đông Nam Á phân bố ở Trung Quốc (Guangdong, Guangxi, Guizhou, Hainan, Yunnan), Campuchia, Ấn Độ, Lào, Malaysia, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam… Chúng thường mọc ở độ cao khoảng 450m so với mực nước biển. Môi trường sống đồi núi, bìa rừng, đồn điền, ruộng lúa, dọc những con đường mòn (Phan Xuân Huyền và cộng sự, 2017). Tại Việt Nam, Sâm Bố Chính được người dân trồng đầu tiên ở một số địa phương Quảng Trị, Quảng Bình. Ngoài ra, cây phân bố ở Ninh Bình, Nghệ An, Hà Tỉnh, Kon Tum, Gia Lai, Bình Phước, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Đồng Nai và một số tỉnh ở vùng núi thấp phía Bắc, như: Quảng Ninh, Hòa Bình. Trong nghiên cứu này, việc trồng, triển khai SBC tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai sử dụng nguồn hạt giống được chọn lọc qua khảo nghiệm tại một số địa phương, như: Kontum, Quảng Ninh…
Các nghiên cứu của các tác giả đã được quan tâm tương đối nhiều trong những năm gần đây, tiêu biểu như: một số công trình của Phan Xuân Huyền và cộng sự (2017), Ngô Thị Minh Thu và cộng sự (2018), Trịnh Thị Hương và cộng sự (2019), Nguyễn Phương Vân (2019), Phan Duy Hiệp và cộng sự (2014)… Điểm chung của các nghiên cứu này là tập trung nghiên cứu pháp nuôi cấy mô thực vật, bước đầu nhóm nghiên cứu thu được kết quả về khả năng tái sinh in vitro, nghiên cứu đánh giá khả năng thích nghi của cây Sâm Bố Chính tại các tỉnh khác nhau và các tỉnh này tập trung chủ yếu tại khu vực miền Trung. Điểm khác biệt của nghiên cứu này với các nghiên cứu trước đây là tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của thời vụ đến khả năng sản xuất hạt giống của Sâm Bố Chính.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu sử dụng phương pháp thí nghiệm từ tháng 6/2023 đến tháng 01/2024. Các thí nghiệm tiến hành tại khu vực đất đai và nguồn nước tưới được đánh giá phù hợp, thuận lợi, tại xã Mường Hum, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Tại lô đất thí nghiệm cày bừa kỹ, nhặt sạch đá, cỏ dại, san phẳng mặt luống và chia ô thí nghiệm. Sâm Bố Chính bắt đầu ra hoa khi được 5-6 tháng tuổi, thường ra hoa vào mùa hè, vào tháng 6-7. Sau 3, 4 tháng có thể thu hoạch quả. Hạt giống Sâm Bố Chính cần được thu hái ở những cây mẹ khỏe mạnh, không sâu bệnh, thời gian thu hái hạt từ tháng 5-9, khi quả đã chín. Thí nghiệm được bố trí với các thời gian trồng khác nhau từ tháng 8 - tháng 1 (năm sau) để xác định khả năng sản xuất hạt giống của Sâm Bố Chính. Thí nghiệm được bố trí với các thời gian trồng khác nhau từ tháng 8 đến tháng 1 năm sau để xác định khả năng sản xuất hạt giống của sâm Bố Chính trồng tại Lào Cai. Các công thức thí nghiệm được gieo vào ngày 15 hàng tháng bao gồm: CT 1: Trồng tháng 8; CT 2: Trồng tháng 9; CT 3: Trồng tháng 10; CT 4: Trồng tháng 11; CT 5: Trồng tháng 12; CT 6: Trồng tháng 1.
Sâm Bố Chính có thể trồng được trên nhiều loại đất, nhưng thích hợp với đất thịt nhẹ, pha cát, tơi xốp, có tầng canh tác dày, thoát nước tốt, đất bãi bồi ven sông suối. Đất được rải vôi bột và cày sâu 20-25 cm, bừa kỹ, làm đất nhỏ, bằng phẳng, sạch cỏ dại và thực bì, lên luống rộng 1,0-1,2 m; khoảng cách luống từ 0,3-0,5 m; cao 30-40 cm. Trên đất gò đồi, độ dốc phù hợp từ 10-150.
Làm giống, gieo bầu, trong nhà màng. Trước khi gieo hạt 2-3 ngày, dùng 500 ml Nano Đồng pha với bình 15-20 lít nước phun cho 500 m2, phun dung dịch đều trên mặt đất để hỗn hợp nano ngấm xuống tầng đất 5-7 cm. Thích hợp trồng vào các thời điểm thời tiết mát mẻ, độ ẩm từ 65%-80% hạt sẽ dễ nảy mầm. Tiêu chuẩn hạt giống đem gieo: Hạt giống phải đảm bảo tỷ lệ nảy mầm ≥ 90%; Độ thuần ≥ 95%, lẫn tạp < 5%; P1000 hạt ≥ 9,0 g; Độ ẩm 9%-10%; Kích thước hạt; Dài hạt ≥ 0,3 cm và Rộng hạt ≥ 0,2 cm. Không có mầm sâu bệnh hại. Hạt giống mua phải rõ nguồn gốc, đảm bảo chất lượng, đúng tiêu chuẩn làm giống. Tổng số cây thí nghiệm: Mỗi công thức 3 lần nhắc lại, mỗi lần nhắc lại 30 cây. Số cây theo dõi 10 cây/ lần nhắc lại.
Sâm Bố Chính bắt đầu ra hoa khi được 5-6 tháng tuổi, thường ra hoa vào mùa hè, vào tháng 6-7. Sau 3, 4 tháng có thể thu hoạch quả. Hạt giống Sâm Bố Chính cần được thu hái ở những cây mẹ khỏe mạnh, không sâu bệnh, khi quả đã chín.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Ảnh hưởng của thời vụ đến sinh trưởng của cây Sâm Bố Chính sản xuất hạt giống
Qua theo dõi các giai đoạn sinh trưởng, phát triển và các chỉ tiêu năng suất, chất lượng hạt giống của cây Sâm Bố Chính ở các thí nghiệm sản xuất hạt giống Sâm Bố Chính cho kết quả như Bảng 1.
Bảng 1: Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến các giai đoạn sinh trưởng, phát triển Sâm Bố Chính
Đơn vị tính: Ngày
![]() |
Nguồn: Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả |
Kết quả tổng hợp ở Bảng 1 cho thấy, ảnh hưởng của thời vụ đến sinh trưởng của cây Sâm Bố Chính như sau:
Thời gian hạt nảy mầm của các thời vụ gieo trồng được tính khi có trên 80% số hạt gieo ươm nảy mầm và có sự khác nhau giữa các công thức. Các công thức thử nghiệm gieo trồng từ tháng 8 đến tháng 10, chỉ sau 3-4 ngày gieo thì hạt mọc đều. thời vụ trồng từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau rơi vào chính giữa mùa đông nên hạt mọc chậm hơn, trung bình từ 4-5 ngày sau khi gieo hạt mới mọc đều.
Sau khi gieo trồng từ 68 đến 78 ngày cây Sâm Bố Chính ra hoa rộ. Thời gian nở hoa rộ của các công thức thí nghiệm thời vụ có sự khác biệt lớn. Công thức 5 trồng Sâm Bố Chính tháng 12 có thời gian từ trồng đến ra hoa rộ ngắn nhất là 68 ngày. Thời gian thu quả chín của công thức 5 lại ngắn hơn các công thức còn lại và thời gian kết thúc thu quả dài hơn. Thời vụ trồng tháng 1 khi gieo hạt xong cây nảy mầm chậm do gặp rét nhưng khi cây phát triển gặp thời tiết thuận lợi vào mùa xuân ấm áp nên hơn 2 tháng cây cho hoa, Sau gần 4 tháng bắt đầu cho hoạch những quả đầu tiên. Tuy nhiên để làm giống các quả phát triển giai đoạn sau cho chất lượng tốt hơn.
Thời gian kết thúc thu quả của các công thức thí nghiệm thời vụ có sự khác biệt rất lớn. Các công thức gieo trồng từ tháng 8-10, chỉ sau 7 tháng cây tàn và kết thúc cho thu quả. Công thức cho thu quả với thời gian dài nhất là công thức 6, gieo hạt vào tháng 1 tới tháng 10 cây mới rụng lá và kết thúc thu quả.
Ảnh hưởng của thời vụ đến khả năng chống chịu sâu bệnh hại của cây Sâm Bố Chính
Thông qua công tác theo dõi các giai đoạn sinh trưởng phát triển cho thấy ảnh hưởng của thời vụ đến khả năng chống chịu sâu bệnh hại trên cây Sâm Bố Chính cho kết quả như Bảng 2.
Bảng 2: Ảnh hưởng của thời vụ đến khả năng chống chịu sâu bệnh hại của cây Sâm Bố Chính
![]() |
Nguồn: Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả |
Kết quả tổng hợp ở Bảng 2 cho thấy, ảnh hưởng của thời vụ đến khả năng chống chịu sâu bệnh hại trên cây Sâm Bố Chính, trong đó mức độ bệnh thối gốc thân là nặng nhất còn nhẹ nhất là bệnh lở cổ rễ, rệp phấn trắng, rầy mềm. Cụ thể như sau:
- Bệnh lở cổ rễ: do nấm Rhizoctonia sp., Fusarium Oxysporum, Pythium sp có nguồn gốc trong đất gây ra. Triệu chứng ban đầu là những đốm màu nâu nhỏ ở gốc thân sát mặt đất. Sau đó, bệnh phát triển xung quanh gốc thân và lan rộng đến rễ, làm khô mao mạch, cây không vận chuyển được nước, chất dinh dưỡng lên nuôi thân, lá làm cho cây bị héo và chết khi bị nhiễm bệnh nặng: Bệnh lây lan phát triển mạnh vào mùa mưa; trên những chân đất thoát nước kém. Mức độ nhiễm bệnh ở các cônng thức thời vụ gieo trồng trong thí nghiệm đều ở mức nhẹ ít ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng củ.
- Bệnh thối thân do nấm Fusarium solani gây ra. Triệu chứng ban đầu là vết bệnh đầu tiên là những đốm màu nâu xám, một số lá bị úa vàng và rủ xuống. Khi bệnh nặng, vết bệnh lan rộng, không có hình dạng nhất định, xung quanh có viền nâu đen, làm thối một phần củ. Vết bệnh thối khô và xốp. Bệnh nặng có thể làm chết cả cây và thối toàn bộ củ. Thời tiết nóng và ẩm là điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển. Thời tiết ở Bát Xát có thời điểm tháng 5 và tháng 6 mưa liên tục, thời tiết ấm và ẩm là điều kiện thuận lợi làm cho tất cả các công thức thí nghiệm đều nhiễm bệnh thối gốc, thối thân và thối củ. Các công thức trồng sớm từ tháng 8, 9, 10 bị ở mức độ nặng, các công thức trồng tháng 12 và tháng 1 bị ở mức trung bình. Đây cũng là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến khả năng cho năng suất hạt giống của các thí nghiệm.
- Sâu cuốn lá (Cnaphalocrocis medinalis): Sâu non có màu xanh nhạt, có 2 sọc trắng chạy dọc cơ thể; trứng có màu trắng đục, trước khi nở chuyển thành màu trắng hơi ngà vàng. Sâu xanh thường sống ở đọt cây và mặt dưới lá non, sâu non thường cuốn lá hoặc kết những lá lại với nhau và nằm bên trong lá cắn phá gây hại. Khi ở mật độ cao, sâu ăn gần hết phần thịt lá, chỉ còn lại gân lá. Sâu xanh gây hại hầu như quanh năm. Giai đoạn mới trồng khi cây còn nhỏ sâu cuốn lá xuất hiện. Sau khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật thì giai đoạn cây con ít có sâu cuốn lá. Đến khi cây bắt đầu ra hoa, thời tiết ấm và ẩm cùng với mật độ lá dày làm cho sâu cuốn lá phát triển mạnh mẽ. Trong các công thức thí nghiệm thời vụ thì công thức 1 và 2 bị sâu cuốn lá ở mức độ trung bình, các công thức khác bị ở mức độ nhẹ.
- Rệp sáp (Planococcus citri): Rệp sáp sống theo kiểu quần thể. Trên thân thường có một lớp sáp màu trắng trông giống như những sợi bông không thấm nước. Rệp sáp gây hại trên nhiều bộ phận của cây như lá non, chồi non, chùm hoa, quả non, gốc cây. Rệp sáp gây hại bằng cách chích hút nhựa làm cho cây vàng và rụng lá, hoa, quả; cây còi cọc, chết khô nếu bị bệnh nặng. Rệp gây hại hầu như quanh năm, nhất là các tháng mùa khô. Giai đoạn cây trưởng thành, chuẩn bị cho thu hạt là cây bị nhiều nhất. Các công thức thí nghiệm thời vụ sản xuất hạt giống đều bị rệp sáp ở mức độ nhẹ.
- Rầy mềm (Aphis gossypii): có hình bầu dục, chiều dài từ 1,5-2,0 mm, cuối bụng có 2 phiến đuôi và 2 ống bụng ở 2 bên. Biểu hiện đầu tiên trên lá có rầy mềm tấn công là lá bị nhạt màu, sau đó chuyển màu vàng và bị xoăn lại do rầy mềm chích hút nhựa làm cho lá bị khô vàng.
Ảnh hưởng của thời vụ đến năng suất, chất lượng hạt giống cây Sâm Bố Chính
Thông qua công tác theo dõi các giai đoạn sinh trưởng phát triển cho thấy ảnh hưởng của thời vụ đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất hạt giống cây Sâm Bố Chính cho kết quả như Bảng 3.
Bảng 3: Ảnh hưởng của thời vụ đến năng suất hạt giống cây Sâm Bố Chính
![]() |
Nguồn: Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả |
Bảng 3 cho thấy: Cây sâm trồng 5-6 tháng bắt đầu nở hoa và tỷ lệ đậu quả của sâm Bố Chính khá cao. Mỗi cây trong thí nghiệm cho thu hoạch từ 21 đến 31 quả/ cây. Cây ra hoa rải rác và thu quả nhiều đợt trong năm. Số quả trên cây phụ thuộc vào kích thước cây và thời gian sinh trưởng của cây. Quả sâm Bố Chính dạng múi, thường mỗi quả có 5 múi và hạt sâm nằm 2 bên múi. Mỗi quả có từ 45 đến 57 hạt. Qua theo dõi thí nghiệm thời vụ trồng cho kết quả công thức 5 cho số hạt trên quả lớn nhất với mức độ tin cậy 95%.
Hạt sâm Bố Chính rất nhỏ và nhẹ, có hình thận. Khi cân khối lượng nghìn hạt ở các công thức thí nghiệm cho thấy có sự chênh lệch không đáng kể. Sự sai khác không có ý nghĩa thống kê chứng tỏ các thời gian gieo trồng khác nhau không ảnh hưởng tới khối lượng hạt.
Tỷ lệ hạt chắc biến động lớn giữa các công thức từ 63,5%-75,5%. Công thức gieo trồng tháng 8 có tỷ lệ hạt chắc thấp nhất chỉ 63,5%, dẫn tới năng suất lý thuyết của công thức 1 thấp nhất 6,54 tạ/ha. Công thức 6 có tỷ lệ hạt chắc cao nhất 75,5% và năng suất tương ứng cao.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, chất lượng hạt Sâm Bố Chính thể hiện qua tỷ lệ tạp chất và tỷ lệ nảy mầm của hạt giống.
Bảng 4: Ảnh hưởng của thời vụ đến chất lượng hạt giống cây Sâm Bố Chính
![]() |
Nguồn: Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả |
Bảng 4 cho thấy, qua gieo thử nghiệm 300 hạt mỗi công thức cho kết quả như sau: Các công thức gieo trồng sớm tháng 8,9 và 10 có tỷ lệ tạp chất hạt cao, trên 3%. Công thức 5 và công thức 6 gieo trông thangs 12 và tháng 1 có tỷ lệ tạp chất thấp hơn dưới 3 %. Sau khi loại bỏ hạt lép và tạp chất, hạt giống được ngâm ủ và gieo ươm trong bầu để xác định tỷ lệ nảy mầm sau 3 ngày, 5 ngày và 7 ngày. Sau 3 ngày gieo công thức 1 có tỷ lệ nảy màm thấp nhất chỉ 56,35 %, công thức 6 đật tỷ lệ nảy mầm cao nhát 79,32%. Tỷ lệ nảy mầm tăng lên sau 5 ngày và đạt tối đa 7 ngày sau khi gieo. Thời điểm này công thức 4,5 và 6 đều cho tỷ lệ nảy mầm trên 80% đạt tiêu chuẩn của hạt giống thương phẩm. Công thức 6 có tỷ lệ nảy mầm hạt cao nhất đạt 85,37% chứng tỏ chất lượng hạt giống của thời vụ này tốt nhất.
Có thể nói, trong các thời vụ thử nghiệm thì công thức 5 gieo vào tháng 12 và công thức 6 gieo hạt vào tháng 1 cho hiệu quả sản xuất hạt giống tốt hơn cả. Khuyến cáo sản xuất hạt giống Sâm Bố Chính tại Bát Xát nên gieo hạt vào tháng 1.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Về thời gian sinh trưởng các công thức gieo vào vụ thu từ tháng 8 đến tháng 10 hạt nảy mầm nhanh, cây sinh trưởng và ra hoa sớm. Thời gian kết thúc thu quả của công thức gieo trồng tháng 8 ngắn nhất chỉ 210 ngày (7 tháng) cây rụng lá và kết thúc thu quả. Công thức gieo trồng tháng 1 cây nảy mầm nhanh, ra hoa sớm và thời gian thu quả kéo dài đến 10 tháng.
Thời gian gieo trồng ảnh hưởng lớn đến khả năng chống chịu sâu bênh hại của cây Sâm Bố Chính. Công thức gieo trồng tháng 8 bị sâu bệnh nặng nhất, công thức gieo trồng tháng 1 cây chống chịu sâu bệnh tốt nhất.
Khối lượng nghìn hạt, số hạt trên quả của các công thức thí nghiệm thời vụ tương đương nhau. Thời gian gieo trồng tháng 8 cho năng suất hạt thấp nhất do tỷ lệ hạt lép cao, số quả trên cây thấp. Công thức gieo trồng tháng 1 cho năng suất hạt cao nhất đạt 7,8 tạ/ha.
Khi thử nghiệm tỷ lệ nảy mầm của hạt giống thu được từ các thí nghiệm thời vụ gieo trồng cho thấy, các công thức 4, 5 và 6 cho tỷ lệ nảy mầm trên 80% đạt tiêu chuẩn hạt giống thương phẩm. Theo đó, công thức 6 cho tỷ lệ hạt nảy mầm cao nhất đạt 85,37%.
Trong thử nghiệm thời gian gieo trồng 6 tháng (từ tháng 8 đến tháng 1 năm sau) công thức gieo trồng vào tháng 1 cho kết quả năng suất và chất lượng hạt giống tốt nhất. Vì vậy, nhóm tác giả kiến nghị, cần tiếp tục thử nghiệm thêm các thời gian gieo trồng hạt giống khác để cho kết quả đánh giá đầy đủ hơn./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Tất Lợi (1977), Cây thuốc và dược liệu Việt Nam, Nxb Hồng Đức.
2. Ngô Thị Minh Thu, Nguyễn Nhật Hoàng Giang, Bùi Thị Diệu, Nguyễn Đức Tuân, Trương Thị Bích Phương (2018), Nghiên cứu khả năng tái sinh chồi và tạo mô sẹo trong điều kiện In vitro của loài Abelmoschus Sagittifolius Kurz, Tạp chí Y học và Dược, 8(1), 24-29.
3. Nguyễn Phương Vân (2019), Nghiên cứu ảnh hưởng của độ che bóng và thành phần bầu đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của Abelmoschus Sagittifolius trong giai đoạn ương ở Công ty TNHH Nông nghiệp Công nghệ cao Tuệ Lâm, Tạp chí Nghiên cứu và Đổi mới Nông nghiệp Quốc tế, 7(5), 577-579.
4. Phan Duy Hiệp, Nguyễn Trí Minh, Phan Xuân Huyền, Cao Đình Hưng, Đinh Văn Khiêm và Nguyễn Thị Thanh Hằng (2014), Nghiên cứu ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng thực vật đến hình thái một số giống Hibiscus sagittifolius Kurz dưới đây điều kiện ống nghiệm, Tạp chí Công nghệ sinh học, 36(1se), 266-271.
5. Phan Xuân Huyền, Huỳnh Thị Ngoan, Nguyễn Thị Phương Hoàng (2017), Nghiên cứu nhân giống in vitro cây Hibicus sagittifolius Kurz thông qua nuôi cấy đốt thân, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 15(5), 664-672.
6. Trịnh Thị Hương, Võ Phan Nhật Khang, Lê Trường Minh Châu, Văn Minh Hiếu và Trần Trọng Tuân (2019), Nghiên cứu nhân giống in vitro cây Hibicus sagittifoliu Kurz thông qua nuôi cấy hạt và nốt thân, Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ, 55, 216-221.
7. Võ Văn Chi (1997), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb Y học.
Ngày nhận bài: 10/12/2024; Ngày phản biện: 17/12/2024; Ngày duyệt đăng: 21/01/2025 |
* Bài viết là sản phẩm nghiên cứu thuộc đề tài: “Ứng dụng khoa học công nghệ nhân giống, trồng phát triển cây Sâm Bố Chính tại tỉnh Lào Cai”, được thực hiện từ nguồn nhân sách được tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ tỉnh Lào Cai. |
Bình luận