Phí kiểm tra chuyên ngành đè nặng trên vai doanh nghiệp
Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa có báo cáo Chính phủ về tình hình thực hiện Nghị quyết số 19/2016của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017, định hướng 2020. Trong đó, nội dung về quản lý, kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu được đánh giá vẫn là gánh nặng đối với doanh nghiệp.
Lô hàng giá 165 triệu đồng, phí kiểm tra tận... 134 triệu đồng
Cụ thể, theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dù Nghị quyết 19 đã được triển khai từ mấy năm trở lại đây, nhưng chi phí quản lý, kiểm tra chuyên ngành không giảm so với năm trước và chi phí không chính thức có biểu hiện tăng hơn.
Báo cáo mới đây của Bộ Tài chính cho thấy, tỷ lệ các lô hàng phải kiểm tra chuyên ngành cao, trung bình chiếm 30% tổng số lô hàng. Tỷ lệ này còn cao hơn ở các cửa khẩu lớn (ví dụ tỷ lệ tại hải quan thành phố Hồ Chí Minh là 35%, Bình Định 31%,…) và không giảm so với năm trước. Số lượng lô hàng thuộc diện kiểm tra chuyên ngành trên thực tế là rất lớn.
Thừa nhận rằng, rất khó điều tra được tổng chi phí mà doanh nghiệp phải trả cho kiểm tra chuyên ngành, song Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận định, chắc chắn đó là gánh nặng lớn đối với doanh nghiệp và tiêu tốn hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm.
Cụ thể, theo khảo sát và phản ánh của doanh nghiệp năm 2015 và 2016, mức chi phí kiểm tra chuyên ngành tối thiểu cho một tờ khai như sau: phí kiểm dịch là 1.000.000 đồng, kiểm tra chất lượng và an toàn thực phẩm là 2 triệu đồng. Như vậy, tổng số chi phí cho việc thực hiện thủ tục kiểm tra chuyên ngành riêng đối với hàng hoá nhập khẩu làm thủ tục tại hải quan thành phố Hồ Chí Minh năm 2015 khoảng: (56.270 TK x 1.000.000 đồng) + (132.356 TK x 2.000.000 đồng) + (407.802 TK x 2.000.000 đồng) = 1.136 586.000.000 đồng (tức khoảng hơn 1.136,5 tỉ đồng).
Chi phí này chưa bao gồm phí cấp giấy phép và các loại giấy tương tự; chi phí tiền vay; chi phí lưu kho bãi; chi phí lao động, ngày công; và các chi phí cơ hội khác.
Thông thường, lượng tờ khai xuất – nhập khẩu qua hải quan TP. Hồ Chí Minh chiếm khoảng 40%- 50% tổng số tờ khai toàn quốc, nhưng do cảng và sân bay ở TP. Hồ Chí Minh lớn nhất cả nước, nên tỷ lệ hàng hoá thuộc diện quản lý, kiểm tra chuyên ngành cao hơn các nơi khác. Vì vậy, chỉ tạm tính số lượng tờ khai thuộc diện kiểm tra chuyên ngành phát sinh ở tất cả các đơn vị hải quan còn lại tối thiểu bằng 50% của TP. Hồ Chí Minh.
Như vậy, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng chi phí cho 3 loại kiểm tra chuyên ngành trên (kiểm dịch, kiểm tra an toàn thực phẩm, kiểm tra chất lượng) trong cả nước là khoảng: (1136,5 tỷ x 50%) + 1136,5 tỷ = 1704.75 tỷ đồng/năm 2015. Đó là chưa kể đối với hàng hoá Mhóm 2 còn phải làm thủ tục hợp quy với chi phí còn lớn hơn chi phí kiểm tra.
Vì thế, mới có chuyện một doanh nghiệp nhập khẩu lô hàng 8 máy làm mát trị giá 8.000 USD, tương đương khoảng 165 triệu đồng, nhưng chi phí thử nghiệm, kiểm tra chất lượng lên đến 134 triệu đồng (thử nghiệm tại Quantest 1), chưa kể chi phí vận chuyển. Có doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu thuỷ sản một năm chi phí khoảng 6 tỷ đồng cho việc thực hiện kiểm tra chất lượng hàng thuỷ sản (do Nafiquad kiểm tra).
Nghị quyết 19 của Chính phủ đã yêu cầu phải giảm tỷ lệ lô hàng phải kiểm tra chuyên ngành xuống còn 15% vào cuối năm nay
Cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, qua các khảo sát gần đây chi phí kiểm tra chuyên ngành đang là gánh nặng của nhiều doanh nghiệp. Một số loại phí (kiểm tra chất lượng, kiểm dịch…) được tính theo trị giá hoặc trọng lượng lô hàng, đây là cách tính phí trái với cam kết tại các FTA và chuẩn mực quốc tế.
Do vậy, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị, Bộ Tài chính nghiên cứu sửa đổi toàn diện các quy định hiện hành về phí kiểm tra chuyên ngành, quy định theo hướng mức phí phù hợp với các dịch vụ được cung cấp.
Nhiều bộ chưa thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao theo Nghị quyết 19
Bên cạnh đó, theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vẫn còn tình trạng chồng chéo trong quản lý, kiểm tra chuyên ngành. Đó là còn khá phổ biến tình trạng một mặt hàng bị điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật (luật, nghị định, thông tư) trong cùng lĩnh vực hoặc thuộc các lĩnh vực khác nhau dẫn đến phải chịu sự quản lý của nhiều bộ, với các cách quản lý khác nhau. Thậm chí, có mặt hàng chịu sự quản lý khác nhau của các đơn vị trong cùng một Bộ.
Hơn nữa, việc quản lý, kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa nhập khẩu chủ yếu là tiền kiểm, thực hiện trước khi thông quan; kiểm tra chuyên ngành quá mức cần thiết, kiểm tra theo lô hàng (chưa áp dụng quản lý rủi ro, quản lý trên cơ sở đánh giá sự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp), dẫn tới kéo dài thời gian, tốn kém nhiều chi phí, gây bức xúc cho doanh nghiệp.
Đáng chú ý là việc ứng dụng công nghệ thông tin trực tuyến trong quản lý, kiểm tra chuyên ngành rất hạn chế. Hầu hết các Bộ vẫn áp dụng hình thức thủ công, giấy tờ trong tiếp nhận và trả kết quả kiểm tra.
Thực tế, cổng thông tin một cửa quốc gia đã đi vào hoạt động, đến nay đã có 10 Bộ tham giathực hiện kết nối 31/khoảng 100 thủ tục quản lý, kiểm tra chuyên ngành, nhưng đa số là các thủ tục không phổ biến, vì thế hiệu quả cải cách thấp.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá, thực tế công tác quản lý, kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hoá nhập khẩu 9 tháng qua chưa có sự cải thiện (ngoại trừ một số ít lĩnh vực như kiểm dịch thực vật…), chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Nhiều bộ vẫn chưa chủ động, chưa quan tâm đúng mức tới nhiệm vụ được giao theo Nghị quyết 19.
Chẳng hạn, Nghị quyết 19 yêu cầu 10 bộ (gồm các Bộ: Tài chính, Công thương, Khoa học và Công nghệ, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Giao thông Vận Tải, Công an, Y tế, Thông tin và Truyền thông, Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng) rà soát, đánh giá, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về quản lý, kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hoá xuất nhập khẩu, nhưng mới chỉ có rất ít Bộ (gồm Tài chính, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Giao thông vận tải) chủ động triển khai thực hiện, còn lại các Bộ về cơ bản chưa quan tâm đúng mức tới nhiệm vụ hết sức quan trọng này.
Một số quy định về quản lý chuyên ngành được sửa đổi, bổ sung, nhưng chưa đáp ứng đúng yêu cầu của Nghị quyết; chưa giải quyết được vấn đề, gây bức xúc cho doanh nghiệp.
Điển hình như Thông tư 37/2015/TT-BCT ngày 30/10/2015 của Bộ Công thương quy định về mức giới hạn và việc kiểm tra hàm lượng formaldehyt và amin thơm chuyển hóa từ thuốc nhuộm azo trong sản phẩm dệt may.
Hay như thời gian kiểm tra chuyên ngành cơ bản chưa có sự cải thiện. Kết quả đo thời gian thông quan tại một số hải quan cửa khẩu cho thấy, thời gian kiểm tra chuyên ngành vẫn kéo dài, ví dụ, tại hải quan Cần Thơ là 13,6 ngày (chiếm 78%); Đà Nẵng 19 ngày; Bình Định 18 ngày. Một số mặt hàng kiểm tra chất lượng có thời gian kiểm tra dài hơn nhiều như: thiết bị y tế 40 ngày; kiểm tra hiệu suất năng lượng 43 ngày; kiểm tra chất lượng xe cứu hoả, cứu thương 79 ngày.
“Những bất cập của hoạt động kiểm tra chuyên ngành đã và đang tạo gánh nặng cho doanh nghiệp, gây bất lợi đến cải thiện môi trường kinh doanh. Đa số các doanh nghiệp cho rằngthủ tục, thời gian và chi phí kiểm tra chuyên ngành không thuận lợi hơn cho doanh nghiệp so với trước. Có khá nhiều vướng mắc của doanh nghiệp đã được phát hiện, phản ánh trong thời gian dài; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các giải pháp cụ thể để xử lý các vướng mắc này, nhưng một số Bộ, ngành có liên quan vẫn chưa giải quyết dứt điểm; gây bức xúc, nản lòng, làm giảm dần niềm tin và sự kỳ vọng vào những thay đổi cải cách từ các bộ, ngành, và do vậy ảnh hưởng không tốt tới tính hiệu lực, hiệu quả của các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá./.
Bình luận