Thực tiễn thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhật Bản và bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
ThS. Đặng Minh Anh
Khoa Luật - Trường Đại học Thương mại
Email: minhanh.dang@keio.jp
Tóm tắt
Thúc đẩy thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là một xu thế tất yếu trong bối cảnh các quốc gia hướng đến thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Các doanh nghiệp muốn phát triển bền vững luôn phải tuân thủ những chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng giới, an toàn lao động, đào tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng... Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam không thể đứng ngoài dòng chảy chung của thế giới và cần tăng cường nỗ lực nhận thức và thực hiện trách nhiệm xã hội. Bài viết dưới tâp trung nghiên cứu tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp tại Nhật Bản như là một quốc gia đi trước đã thành công trong lĩnh vực kinh doanh song hành với thực hiện trách nhiệm xã hội, trên cơ sở đó gợi ý một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Từ khóa: Trách nhiệm xã hội, doanh nghiệp, phát triển bền vững
Summary
Promoting the implementation of corporate social responsibility is an inevitable trend in the context of countries aiming to achieve sustainable development goals. Enterprises that want to develop sustainably must always comply with standards on environmental protection, gender equality, labor safety, employee training and development, community development, etc. Therefore, Vietnamese enterprises cannot stand outside the general flow of the world and need to increase efforts to perceive and implement social responsibility. The article below focuses on studying the implementation of corporate social responsibility in Japan as a pioneering country that has succeeded in the field of business in parallel with implementing social responsibility, on that basis, suggesting some lessons for Vietnam.
Keywords: Social responsibility, business, sustainable development
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thực hành kinh doanh có trách nhiệm là phong cách kinh doanh đặt sự phát triển bền vững của cộng đồng và môi trường lên hàng đầu. Đặc biệt trong bối cảnh xã hội hiện đại, khi mục tiêu phát triển bền vững là mục tiêu của các quốc gia thì thúc đẩy thực hiện trách nhiệm của doanh nghiệp là xu thế tất yếu. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility - CSR) không phải là khái niệm mới, mà đã được chính thức giới thiệu từ năm 1953 khi học giả H.R. Bowen công bố cuốn sách với tựa đề “Trách nhiệm xã hội của doanh nhân” (Social Responsibilties of the Bussinessman) nhằm mục đích tuyên truyền và kêu gọi người quản lý tài sản không làm tổn hại đến các quyền và lợi ích của của người khác, kêu gọi lòng từ thiện nhằm bồi hoàn cho các thiệt hại do doanh nghiệp làm tổn thương cho xã hội.
Tuy nhiên, các học giả và các chủ thể nghiên cứu vẫn đưa ra những quan điểm khác nhau về định nghĩa trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Năm 1973, Davis K. cho rằng: “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là quan tâm và phản ứng của doanh nghiệp đến các vấn đề vượt ra ngoài việc thỏa mãn những yêu cầu về pháp lý, kinh tế và công nghệ.” Năm 1979, Caroll với định nghĩa “trách nhiệm xã hội là tất cả các vấn đề kinh tế, pháp lý, đạo đức và lòng từ thiện của một tổ chức mà xã hội mong đợi ở một thời điểm nhất định”. Cho đến năm 2001, Ủy ban Châu Âu đã công bố định nghĩa về CSR đã nhận được sự đồng thuận của rộng rãi các chủ thể quan tâm, theo đó định nghĩa CSR là “một khái niệm mà theo đó các doanh nghiệp tích hợp các mối quan tâm xã hội và môi trường vào trong hoạt động kinh doanh và trong sự tương tác của họ với các bên liên quan trên cơ sở tự nguyện.” Như vây, có thể hiểu một cách chung nhất, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là toàn bộ ảnh hưởng của doanh nghiệp đến xã hội thông qua hoạt động sản xuất, kinh danh của mình. Để thực hiện CSR đòi hỏi các doanh nghiệp phải tuân thủ pháp luật, các quy tắc đạo đức xã hội, vì con người, hướng tới khách hàng, cổ đông và xã hội.
THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP NHẬT BẢN
Khung khổ pháp lý cho việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhật Bản
Từ góc độ pháp luật quốc gia, Nhật Bản có cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh một cách chặt chẽ nhằm đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng và công bằng trong thị trường bằng việc ban hành một số các văn bản pháp luật quan trọng quy định về thực hành kinh doanh có trách nhiệm như: Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Luật Cạnh tranh, Luật Thương mại điện tử, Luật về Bảo vệ dữ liệu cá nhân, Luật về Môi trường. Các luật này có vai trò tạo ra một nền tảng pháp lý để doanh nghiệp phải hoạt động có trách nhiệm, cụ thể như sau:
- Luật Bảo vệ người tiêu dùng: Đây là luật quan trọng nhất về quy định về quyền lợi và bảo vệ người tiêu dùng. Các doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định về quảng cáo, bảo vệ thông tin cá nhân, bảo đảm chất lượng sản phẩm và dịch vụ.
- Luật Cạnh tranh: Luật này cấm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh như đánh giá giá, chia cắt thị trường hoặc hạn chế sự lựa chọn của người tiêu dùng.
- Luật Thương mại điện tử: Để bảo vệ người tiêu dùng khi mua sắm trực tuyến, luật này quy định về việc cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác, quy định về việc xử lý khiếu nại và đổi trả hàng hóa.
- Luật về Bảo vệ dữ liệu cá nhân: Để bảo đảm an toàn cho thông tin cá nhân của người tiêu dùng, các doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định về thu thập, lưu trữ và xử lý dữ liệu cá nhân.
- Luật về Môi trường: Để bảo vệ môi trường, các doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định về xử lý chất thải, tiết kiệm năng lượng và sử dụng nguyên liệu tái chế. Những quy định trên giúp bảo đảm rằng, các doanh nghiệp tại Nhật Bản phải thực hiện kinh doanh một cách trách nhiệm và bền vững, đồng thời bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng và môi trường.
Ngoài ra, khung khổ cho thực hiện CSR của doanh nghiệp Nhật cơ bản bao gồm hệ thống tiêu chuẩn quốc tế; định hướng chuẩn mực hành vi từ các tổ chức dân sự, tổ chức hiệp hội và một phần nào đó từ một số cơ quan nhà nước. Đây là các tiêu chuẩn mềm (soft law), không có tính ràng buộc pháp lý trực tiếp như luật pháp quốc gia, nhưng có ảnh hưởng lớn đến chính sách doanh nghiệp và thực tiễn kinh doanh. Một số bộ tiêu chuẩn quốc tế về khung khổ CSR mà Nhật Bản tham gia có thể kế đến như: Hướng dẫn của OECD về tập đoàn đa quốc gia; Thỏa ước Toàn cầu của Liên hợp quốc (UNGC); ISO 26000. Ngoài ra, có thể kể đến một số chuẩn mực hoặc cam kết quốc tế khác về các lĩnh vực chuyên biệt có liên quan đến CSR mà Nhật Bản tham gia như: Bộ quy tắc ứng xử trong kinh doanh và quyền con người của Liên Hợp quốc, Bảo đảm điều kiện lao động của ILO, Tiêu chuẩn của IFC về môi trường và xã hội...
Tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội tại một số doanh nghiệp Nhật Bản
Công ty Honda
Công ty Honda là một doanh nghiệp có bề dày lịch sử gần 100 năm tồn tại và hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh các sản phẩm phục vụ nhu cầu đi lại như: xe máy, ô tô, xe điện và gần đây cả máy bay và máy bay không người lái. Với quan điểm bảo vệ môi trường từ thời sáng lập ra Công ty của ông Soichiro Honda cho tới nay, quan điểm về CSR của Honda đã thực sự là một điểm sáng trong ngành sản xuất xe máy và ô tô Nhật Bản. Tầm nhìn của Honda bao gồm nội dung liên quan tới kinh doanh được xây dựng trên cơ sở thỏa mãn các nội dung của CSR bao gồm: đảm bảo môi trường, chất lượng, lợi ích xã hội và sự an toàn.
Thứ nhất, thực hiện CSR là đảm bảo mục tiêu an toàn khi sử dụng sản phẩm và đảm bảo lợi ích cho cộng đồng xã hội. Các chương trình hành động của Honda như “lái xe an toàn”, “chương trình giáo dục an toàn cho cộng đồng” được đưa vào trường học và các cuộc thử lái xe cho các gia đình. Những hoạt động này đã được triển khai ở trên 36 quốc gia khác nhau.
Thứ hai, thực hiện CSR là bảo vệ môi trường. Ngay từ những năm 1972, để đáp ứng các quy định quốc tế quy định về việc giới hạn khí thải NOx, Honda đã phát minh ra động cơ CVCC là động cơ đầu tiên thỏa mãn được yêu cầu. Chính điều này đã khẳng định những nỗ lực của Honda khi tiến hành CSR trong công nghệ nhằm tạo ra các sản phẩm với khí thải ít gây độc hại đối mới môi trường. Không những vậy, một mục tiêu rất táo bạo mà Honda đặt ra cho tới năm 2050 đó chính là phấn đấu khí thải CO2 xuống còn “0” để bảo vệ môi trường.
Thứ ba, đối với người lao động, Honda luôn quan tâm đến đối ngũ lao động, đặc biệt là đối với lao động là nữ giới. Tỷ lệ nữ giới nghỉ việc sau khi sinh con ở Nhật Bản là rất phổ biến, điều này khiến lực lượng lao động Nhật Bản đã khan hiếm nay lại còn khó khăn hơn. Chính vì vậy, giải pháp để đảm bảo lao động nữ vẫn có thể trở lại làm việc sau khi sinh con là một yêu cầu quan trọng đối với Honda. Honda đã phát hành “sổ tay vừa đi làm 149 vừa nuôi con” để tạo điều kiện cho lực lượng lao động nữ có thể trở lại làm việc.
Công ty ANA
Từ khi thành lập vào năm 1952, tập đoàn ANA đã liên tục cung cấp dịch vụ hàng không với phương châm “sự an toàn là ưu tiên hàng đầu. Hiện nay, ANA đã phát triển trở thành một trong những công ty hàng không hàng đầu thế giới. Với vai trò là doanh nghiệp lớn trong ngành công nghiệp hàng không thế giới, tập đoàn ANA cũng đưa ra cam kết hỗ trợ phát triển cộng đồng toàn cầu và thực hiện những kỳ vọng và đặt ra những mục tiêu CSR trong thời gian tới. Theo quan điểm của ANA, việc mang lại sự an toàn và có được sự tin tưởng của xã hội thông qua việc đối thoại với các bên liên quan khác nhau, cùng với sự phát triển bền vững và đóng góp vào việc tạo ra một xã hội của tương lai là mục tiêu về CSR mà công ty hướng tới.
Chương trình hành động CSR Các chương trình hành động CSR của ANA được thực hiện trên 02 mảng chính: Các sáng kiến CSR liên quan đến môi trường và các sáng kiến CSR vì cộng đồng.
- Sáng kiến CSR liên quan đến môi trường Với mục tiêu trở thành hãng hàng không thân thiện với môi trường, Công ty ANA đã đặt ra một số mục tiêu cụ thể cho mỗi giai đoạn, cùng lúc đó đẩy mạnh các hoạt động bảo vệ môi trường trọng tâm là việc giảm khí thải CO2 bằng cách đưa ra các cách tiếp cận sáng tạo mới cả trên bầu trời cũng như trên mặt đất như giới thiệu những máy bay mới thân thiện với môi trường và thực hiện một nghiên cứu về việc sử dụng nhiên liệu thay thế.
- Sáng kiến CSR vì cộng đồng. ANA chung tay với UNESCO xây dựng xã hội ổn định. Trong tháng 09/2013, Công ty đã trở thành đơn vị hỗ trợ chính thức đầu tiên trên thế giới của UNESCO trong các lĩnh vực giáo dục và bảo tồn di sản thế giới…
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆC THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI TẠI DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Hiện nay, CSR đã đã trở thành một trong những yêu cầu không thể thiếu đối với doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Bởi, nếu không tuân thủ trách nhiệm xã hội, doanh nghiệp sẽ không thể tiếp cận được với thị trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp khi thực hiện CSR đã mang lại những hiệu quả thiết thực trong sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp còn củng cố được uy tín với khách hàng, tạo được sự gắn bó và hài lòng của người lao động, thu hút được lực lượng lao động có chuyên môn cao.
Nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu sang các thị trường EU, Nhật Bản, Bắc Mỹ thường xuyên phải đối mặt với những yêu cầu báo cáo liên quan đến CSR. Từ năm 2008, UNDP đã có dự án khuyến khích thực hiện CSR theo thông lệ kinh doanh tại các doanh nghiệp ở Việt Nam. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI có giải thưởng CSR (2012). Tuy vậy, dường như CSR vẫn chưa thực sự được quan tâm thỏa đáng ở Việt Nam, cả về quan điểm, nội dung và cách thức thực hiện. Phần lớn doanh nghiệp chưa có nhận thức đầy đủ về CSR cũng như vai trò của nó đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền vững của doanh nghiệp mình, thậm chí một số còn coi CSR là gánh nặng chi phí. Một số doanh nghiệp Việt Nam, chỉ nhận thức rằng, CSR là hoạt động trách nhiệm xã hội vì mục đích từ thiện, hoăc nhân đạo.
Trên cơ sở thực tiễn tại Việt Nam, học tập kinh nghiệm của Nhật Bản, tác giả khuyến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc thực hiện CSR tại các doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất, tăng cường phổ biến để nâng cao nhận thức về CSR cho các bên có liên quan
Cụ thể, cần tập trung vào nâng cao nhận thức về khía cạnh pháp lý của CSR đối với các thủ thể có liên quan. Doanh nghiệp Việt Nam cần hiểu rõ các nghĩa vụ pháp lý liên quan đến CSR (dù hiện tại chủ yếu là tự nguyện), cũng như các rủi ro pháp lý nếu không thực hiện CSR một cách nghiêm túc (ví dụ: rủi ro về kiện tụng, mất uy tín, bị hạn chế tiếp cận thị trường quốc tế).
Chủ doanh nghiệp là đối tượng trước hết cần nhận thức rõ về trách nhiệm xã hội bởi tầm nhìn và quyết định của họ có ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược sản xuất - kinh doanh của tổ chức. Một khi hiểu rõ được tầm quan trọng và lợi ích khi thực hiện các nội dung này, người đứng đầu sẽ chủ động xây dựng kế hoạch, đầu tư, hỗ trợ việc triển khai. Căn cứ vào tình hình cụ thể, doanh nghiệp có thể ưu tiên triển khai một số nội dung ngay từ khi mới đi vào hoạt động. Từ đó nhận khuyến nghị nên bổ sung khuyến nghị tổ chức các khóa đào tạo pháp lý về CSR cho các chủ doanh nghiệp, đặc biệt tập trung vào các luật liên quan (môi trường, lao động, tiêu dùng, cạnh tranh, phòng chống tham nhũng) và các tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ hai, sớm hình thành các tiêu chuẩn, quy tắc ứng xử ở tầm ngành và quốc gia về CSR
Từ tháng 3/2012, Nhật Bản công nhận ISO 26000 là một tiêu chuẩn chính thức trong bộ tiêu chuẩn Nhật Bản bởi tiêu chuẩn này bao gồm tất cả các khía cạnh của CSR; giúp cải thiện quản lý rủi ro của doanh nghiệp; tạo ra một thứ ngôn ngữ toàn cầu về CSR. Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy, mặc dù CSR phụ thuộc nhiều vào bản thân ý chí và lợi ích của doanh nghiệp, CSR đã trở nên phổ biến hơn, thực chất hơn và khuyến doanh nghiệp thực hiện mạnh mẽ hơn sau khi có những tiêu chuẩn và chuẩn mực chung về CSR chính thức được áp dụng. Việt Nam hiện nay chưa xây dựng được bộ quy tắc ứng xử CSR nào dẫn đến việc các doanh nghiệp gặp khó khăn nếu muốn thực hiện chiến lược CSR của doanh nghiệp. Vì vậy, khuyến nghị Việt Nam nên nghiên cứu xây dựng khung pháp lý về CSR thay vì chỉ dừng lại ở tiêu chuẩn tự nguyện. Việc xây dựng bộ quy tắc ứng xử có trách nhiệm của doanh nghiệp Việt Nam cần được xây dựng dựa trên tham khảo kinh nghiệm quốc tế đi kèm với tính toán điều kiện thực tế trong nước, theo đó có thể cân nhắc các hình thức pháp lý khác nhau như: Xác định Luật khung về CSR, trong đó đặt ra các nguyên tắc chung và cơ bản về CSR; Sửa đổi, bổ sung các luật hiện hành có trong các lĩnh vực như: môi trường, lao động, tiêu dùng, cạnh tranh,… để tăng cường các quy định về CSR trong từng lĩnh vực cụ thể; Chi tiết hóa, hướng dẫn cụ thể các quy định pháp luật về CSR thông qua việc ban hành các nghị định, thông tư hướng dẫn.
Thứ ba, đưa CSR vào giảng dạy trong các trường đại học nhằm bồi dưỡng thế hệ tương lai thúc đẩy CSR
Có thể thấy, chức năng của các trường đại học đó là đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cho quốc gia, do vậy trách nhiệm xã hội doanh nghiệp của các trường đại học là rất lớn, nó gắn với trách nhiệm báo cáo hay giải thích kết quả hoạt động một cách chính trực và trung thực cho các bên liên quan trong việc cung cấp dịch vụ giáo dục và sử dụng nguồn lực. Có được những nhận thức tốt về CSR, qua thời gian được đào tạo, bồi dưỡng, với trí tuệ sẵn có những thế hệ tương lai trẻ này sẽ là thành phần tích cực thúc đẩy CSR trong các doanh nghiệp sau khi ra trường và làm việc cho các doanh nghiệp, tổ chức xã hội khác. Do đó, các trường đại học nên tích hợp nội dung pháp lý về CSR vào chương trình giảng dạy luật, kinh tế, quản trị kinh doanh, môi trường, và các ngành liên quan./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bowen, P.G., Gond, J., and Bowen, H.R. (2013). Social Responsibilities of the Businessman, (papered.), Iowa City: University of Iowa Press.
2. Cao Đình Lành, Đồng Thị Huyền Nga (2022). Thực thi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Việt Nam- Thách thức và một số gợi mở, Tạp chí Luật học, số 7.
3. Caroll A.B. (1979). A three dimensional model corporate social performance, Academy of Management Review, 4, 497-505.
4. Contrafatto, M., Ferguson, J., Power, D., Stevenson, L., and Collison, D. (2020). Understanding power-related strategies and initiatives: The case of the European Commission Green Paper on CSR, Accounting, Auditing & Accountability Journal, 33(3), 559-587.
5. Davis K. (1973). The case for and against Business Assumption of Social Responsibilities, Academy of Management Journal, 16, 312-323.
6. Japanbiz (2023). Trách nhiệm của doanh nghiệp Nhật Bản với xã hội – CSR, truy cập từ https://japanbiz.vn/trach-nhiem-cua-doanh-nghiep-nhat-ban/.
7. Phan Văn Tính (2018). Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhật Bản- Một số gợi ý cho doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong kỷ nguyên 4.0, Tạp chí Công Thương, số 4/2018.
8. Phùng Mạnh Hùng, Phùng Thị Lan Hương (2020). Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR): Kinh nghiệm của một số doanh nghiệp Nhật Bản và một số khuyến nghị cho các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại, số 121.
9. The Tokyo Foundation for Public Research (2024). Overview of CSR in Japan: Ideals, Intentions and Realities at Advanced Companies, retrieved from https://www.tokyofoundation.org/research/detail.php?id=538.
Ngày nhận bài: 13/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 22/5/2025; Ngày duyệt đăng: 27/5/2025 |
Bình luận