Toàn cảnh bức tranh nông nghiệp Việt Nam năm 2024
TS. Nguyễn Văn Đoàn
Vụ trưởng Vụ Kinh tế nông nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Ngành nông nghiệp, nông thôn thực hiện kế hoạch năm 2024 trong điều kiện có những thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen; trong đó có yếu tố tác động mạnh của biến động thị trường, của thời tiết nắng nóng gay gắt, hạn hán, mưa bão tại các địa phương vùng Tây Nguyên, miền Trung, xâm nhập mặn tại các tỉnh, thành phố phía Nam, Bão số 3 (Yagi) gây thiệt hại nặng cho Ngành... Trong bối cảnh đó, cùng với sự chỉ đạo của các cấp, các ngành; sự chung sức, vượt khó, sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp, bà con nông dân và đồng hành của các cơ quan truyền thông tạo sự đồng thuận của cả xã hội vượt qua khó khăn, thách thức để chuyển đổi tư duy phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn; duy trì đà tăng trưởng cao góp phần vào tăng trưởng, phát triển kinh tế cả nước, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh lương thực Quốc gia.
NÔNG NGHIỆP TIẾP TỤC KHẲNG ĐỊNH LÀ NGÀNH KINH TẾ QUAN TRỌNG TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
Năm 2024, ngành nông nghiệp tiếp tục thực hiện chuyển đổi mạnh từ tư duy sản xuất sang tư duy kinh tế nông nghiệp, từ phát triển đơn ngành sang hợp tác, phát triển đa ngành. Vì vậy, giá trị sản xuất toàn Ngành vẫn đạt mức tăng khá cao, khoảng 3,3%, tỷ lệ che phủ rừng 42%; tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới ước đạt 78,7%; tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước sạch hợp quy chuẩn 58%; tổng kim ngạch xuất khẩu toàn Ngành đạt mức kỷ lục khoảng 62,5 tỷ USD, thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu sản xuất nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch, điều chỉnh phù hợp, tích hợp đa giá trị, hiệu quả hơn gắn với thị trường, tăng tỷ trọng các tiểu ngành, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh và giá trị cao, bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm
Trong trồng trọt, đã tổ chức sản xuất theo chuỗi các sản phẩm chủ lực quốc gia; phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, các sản phẩm đặc hữu địa phương, chuyển đổi theo hướng khai thác đa tầng, đa giá trị trên một diện tích đất; sử dụng giống chất lượng cao. Năm 2024 đã chuyển đổi khoảng 116 nghìn ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng rau, cây ăn quả, cây công nghiệp, nuôi trồng thủy sản có hiệu quả kinh tế cao hơn[1]. Sản lượng lương thực có hạt năm 2024 ước đạt 48,1 triệu tấn, tăng 0,4%; giá trị 1 ha đất trồng trọt năm 2024 ước đạt 127 triệu đồng, tăng 7,4 % so với năm 2023.
Thúc đẩy phát triển chăn nuôi bền vững, bảo đảm nguồn cung cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Chăn nuôi nông hộ, nhỏ lẻ giảm và chuyển dần sang chăn nuôi tập trung, quy mô trang trại; liên kết sản xuất giữa các nông hộ hoặc giữa nông hộ với doanh nghiệp ngày càng được quan tâm. Sản lượng thịt hơi các loại ước đạt 8,1 triệu tấn, tăng 3,5% so với năm 2023; trong đó thịt lợn hơi 5 triệu tấn, tăng 3,7%; thịt gia cầm hơi 2,4 triệu tấn, tăng 3,8%. Sản lượng sữa tươi 1,2 triệu tấn, tăng 2,1%; trứng 19,7 tỷ quả, tăng 2,8%. Sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp quy đổi 21,5 triệu tấn, tăng 3,4%.
Sản xuất thủy sản phát triển ổn định nhờ thời tiết thuận lợi cho cả nuôi trồng và khai thác. Đẩy mạnh khai thác xa bờ, cơ cấu lại hoạt động khai thác, phương tiện đánh bắt phù hợp với trữ lượng nguồn lợi thủy sản, tạo điều kiện cho ngư dân vươn khơi bám biển, ổn định sản xuất; hiện đại hóa đội tàu cá, tàu hậu cần nghề cá và công nghệ khai thác, bảo quản, chế biến. Điều chỉnh cơ cấu nuôi hợp lý, phát triển các vùng, mô hình nuôi ứng dụng công nghệ cao, an toàn sinh học, công nghệ thân thiện với môi trường; nhân rộng các mô hình nuôi theo chuỗi liên kết có hiệu quả kinh tế cao. Tổng sản lượng thủy sản ước đạt 9,6 triệu tấn, tăng 2,4%; trong đó khai thác 3,86 triệu tấn, tăng 0,6% và nuôi trồng 5,75 triệu tấn, tăng 3,7%.
Trong lâm nghiệp, tập trung nâng cao năng suất, chất lượng rừng, chú trọng quản lý giống, trồng rừng gỗ lớn theo hướng thâm canh; tỷ lệ diện tích rừng trồng từ nguồn giống có kiểm soát đạt 85%-90%. Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng phát huy hiệu quả và đóng vai trò quan trọng trong công tác bảo vệ và phát triển rừng. Năm 2024, diện tích rừng trồng tập trung ước 282 nghìn ha, tăng 0,2% và 130 triệu cây phân tán; sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng ước 22,88 triệu m3, tăng 9,8%.
Thứ hai, công nghiệp chế biến và cơ giới hóa được tăng cường theo hướng chế biến sâu, gia tăng giá trị, giảm tổn thất trong nông nghiệp
Thực hiện Chiến lược phát triển cơ giới hóa và công nghiệp chế biến nông sản Việt Nam đến năm 2030 và các cơ chế, chính sách liên quan đến công nghiệp chế biến và cơ giới hóa đã được cấp có thẩm quyền ban hành. Số lượng, chủng loại máy, thiết bị nông nghiệp tăng nhanh, nhiều loại máy, thiết bị, công nghệ hiện đại được áp dụng trong sản xuất, như số lượng máy động lực, máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp thay thế và bổ sung tăng khoảng 5% so với năm 2023. Số lượng, chủng loại máy, thiết bị nông nghiệp tăng nhanh, nhiều loại máy, thiết bị, công nghệ hiện đại được áp dụng trong sản xuất, như số lượng máy động lực, máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp thay thế và bổ sung tăng khoảng 5% so với năm 2023. Một số công nghệ hiện đại được áp dụng trong sản xuất, như thiết bị bay không người lái (drone) phun thuốc bảo vệ thực vật, gieo hạt, phân, bơm nước thông minh. Cơ giới hóa đồng bộ từ làm đất, gieo, cấy, chăm sóc, thu hoạch, sấy, tiêu thụ sản phẩm… đã phát triển tại nhiều địa phương; sản xuất lúa tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng khâu làm đất đạt 100%, thu hoạch trên 90%, thu gom rơm rạ vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt trên 90%...
Thứ ba, thị trường tiêu thụ sản phẩm nông lâm thuỷ sản tiếp tục được mở rộng cả về ngành hàng và sản phẩm, chú trọng thị trường trong nước; xúc tiến thương mại, mở cửa thị trường mới, tháo gỡ rào cản thương mại, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản đạt mức kỷ lục trong bối cảnh thị trường thế giới khó khăn
Về tiêu thụ trong nước: Các địa phương theo dõi sát tình hình sản xuất, nguồn cung, biến động giá cả, đặc biệt là các mặt hàng nông sản vào vụ có sản lượng thu hoạch lớn và vật tư đầu vào phục vụ sản xuất, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong lưu thông, phân phối, tiêu thụ nông sản, bảo đảm nguồn cung nông sản thiết yếu đáp ứng nhu cầu thị trường. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến và tiêu thụ nông sản qua các sàn thương mại điện tử uy tín, như: Postmart, Voso, Shopee, Tiki, Ladaza…. Các nền tảng thương mại điện tử không chỉ giúp doanh nghiệp tiếp cận khách hàng quốc tế một cách dễ dàng mà còn tạo ra sự cạnh tranh ngày càng bình đẳng giữa các nhà bán lẻ trong và ngoài nước. Đặc biệt, sự hỗ trợ từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) và cải thiện hạ tầng logistics đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển này, mở ra những triển vọng tươi sáng cho nông sản Việt Nam trên các sàn thương mại điện tử trong tương lai.
Về xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản: Nâng cao chất lượng, gia tăng số lượng cấp mã số vùng trồng, cơ sở vùng nuôi, cơ sở đóng gói, bao bì. Đồng thời, thực hiện các cơ chế, chính sách đối với công tác xúc tiến thương mại, đàm phán mở cửa, phát triển thị trường thúc đẩy xuất khẩu nông lâm thuỷ sản. Nhờ đó, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản năm 2024 ước đạt mức cao kỷ lục 62,5 tỷ USD, tăng 18,7% so với năm 2023, xuất siêu tiếp tục đạt mức kỷ lục mới 17,9 tỷ USD, tăng 46,8%. Trong đó xuất khẩu nông sản chính 32,8 tỷ USD, tăng 22,4%; chăn nuôi 533,6 triệu USD, tăng 6,5%; lâm sản chính 17,28 tỷ USD, tăng 19,4%; thủy sản 10,07 tỷ USD, tăng 12,2%. Có 07 hàng/nhóm mặt hàng xuất khẩu trên 3 tỷ USD (tăng 01 sản phẩm so với năm 2023)[2].
Thứ tư là, khoa học công nghệ, nhất là công nghệ cao được chuyển giao và ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp ngày càng nhiều, góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động sản xuất nông nghiệp
Công tác nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo được đẩy mạnh. Đổi mới mạnh mẽ công tác khuyến nông, phát triển mạnh khuyến nông cộng đồng, nhiều mô hình hay, cách làm hiệu quả được nhân rộng, đặc biệt có hiệu quả trong khắc phục cơn bão số 3 (Yagi). Với phương pháp thực hiện đa dạng, như: tổ chức diễn đàn khuyến nông @nông nghiệp, hội thi, hội chợ... đã tác động sâu rộng và kịp thời đến người sản xuất và cán bộ khuyến nông cả nước; người sản xuất nhanh chóng tiếp cận với khoa học, công nghệ mới, chính sách của Bộ, ngành.
Năm 2024, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã công nhận, ban hành 42 giống mới, 14 tiến bộ kỹ thuật, 12 bằng độc quyền sáng chế, 13 quy trình công nghệ, 4 sổ tay hướng dẫn kỹ thuật... các giải pháp hữu ích, giống mới, vacxin, chế phẩm mới, bản vẽ, thiết kế mới được ứng dụng, chuyển giao vào sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội. Đã có trên 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô, 60% diện tích mía, cây ăn quả,... được dùng giống mới; khoảng gần 90% giống cây trồng, vật nuôi được chọn tạo, đưa tỷ trọng áp dụng giống tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp lên 35%.
Thứ năm là, Công tác quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm hàng nông sản tiếp tục được tăng cường, lòng tin của người dân vào nông sản trong nước ngày càng tăng
Xây dựng và phát triển chuỗi giá trị cung ứng nông sản thực phẩm đảm bảo nguồn cung thực phẩm chất lượng, an toàn cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu (đến nay, có 2.500 chuỗi giá trị được thiết lập duy trì; 322.497 ha cây trồng được chứng nhận VietGAP với 10.081 cơ sở, doanh nghiệp được chứng nhận (tăng 105.400 ha và giảm 3.967 cơ sở so với năm 2023); diện tích nuôi trồng thuỷ sản được chứng nhận VietGAP là 11.054 ha với 773 cơ sở được chứng nhận (tăng 1.686,8 ha và giảm 181 cơ sở); 4.170 trang trại và hộ chăn nuôi được chứng nhận VietGAHP (giảm 712 trang trại và hộ chăn nuôi). Qua đó đã góp phần đảm bảo an toàn thực phẩm, củng cố niềm tin của người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Thứ sáu là, các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục được đổi mới, phát triển cả về số lượng, chất lượng và từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động
Kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp có nhiều chuyển biến, mặc dù số lượng hợp tác xã tăng chậm, nhưng các địa phương đã quan tâm hỗ trợ hợp tác xã phát triển thành viên, mở rộng quy mô sản xuất, liên kết tiêu thụ; tham gia có kết quả, hiệu quả tốt trong các chương trình, đề án trọng điểm như: Đề án một triệu ha canh tác lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng đồng bằng Sông Cửu Long; Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ chế biến và tiêu thụ giai đoạn 2022-2025. Đến hết năm 2024, cả nước có 101 liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp, 21.700 hợp tác xã nông nghiệp (tăng 1.200 hợp tác xã so với năm 2023, trong đó khoảng 65,9% hợp tác xã nông nghiệp hoạt động hiệu quả[3]) và gần 2.500 hợp tác xã nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số; 4.339 hợp tác xã tham gia bao tiêu nông sản cho thành viên. Cả nước có 2.169 hợp tác xã nông nghiệp có các sản phẩm OCOP, chiếm 37,9% số chủ thể sản phẩm OCOP được công nhận. Có khoảng trên 1.200 hợp tác xã nông nghiệp hoạt động du lịch nông nghiệp, nông thôn. Cả nước có 19.660 trang trại[4]; trong đó 1.034 trang trại đầu tư hệ thống điện năng lượng mặt trời, 56 trang trại hoạt động du lịch nông nghiệp, 4.235 trang trại có liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Lực lượng doanh nghiệp nông nghiệp đang trở thành nòng cốt trong chuỗi giá trị nông sản. Năm 2024, thành lập mới trên 1.500 doanh nghiệp, nâng tổng số lên khoảng 17.300 doanh nghiệp, tăng 7,5% so với năm 2023. Bên cạnh sự đầu tư, phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một số tập đoàn, doanh nghiệp lớn tiếp tục gia tăng đầu tư vào nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao như: Nafoods, TH, Dabaco Việt Nam, Masan, Lavifood, Công ty Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao, Thương mại và Đầu tư Biển Đông... Các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ nông sản ngày càng phát triển, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả. Cả nước có 2.938 dự án, kế hoạch liên kết theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, trong đó 1.968 dự án và 970 kế hoạch liên kết được các địa phương phê duyệt. Tham gia các dự án, kế hoạch liên kết đã được phê duyệt có 2.412 HTX, 538 Tổ hợp tác, 1.305 doanh nghiệp và 211.545 hộ nông dân.
Thứ bảy là, hạ tầng nông nghiệp, nông thôn tiếp tục được đầu tư nâng cấp, số công trình lớn được hoàn thành đi vào sử dụng, phát huy hiệu lực, hiệu quả đầu tư
Hệ thống hạ tầng nông nghiệp nông thôn, nhất là các công trình thủy lợi, phòng chống thiên tai, ngăn mặn, chống sạt lở, sụt lún, ứng phó biến đổi khí hậu, các cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão, hạ tầng phục vụ sản xuất giống, cơ sở nghiên cứu, đào tạo... được đầu tư, đưa vào sử dụng đã giúp tăng mức đảm bảo tưới, tiêu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, hạn chế tác động do hạn hán, biến đổi khí hậu gây ra.
Thứ tám là, phát triển nông thôn và Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tiếp tục được quan tâm; số sản phẩm OCOP vượt xa mục tiêu đề ra; các nhiệm vụ giảm nghèo và an sinh xã hội được quan tâm thực hiện
Đến cuối năm 2024 cả nước có khoảng 78,7% xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó, 2.225 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (tăng 602 xã) và 532 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu (tăng 274 xã), bình quân cả nước đạt 17,5 tiêu chí/xã (tăng 0,6 tiêu chí). Có 302 đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới (tăng 32 đơn vị, chiếm 47%); trong đó, 15 huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Trong tổng số 22 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% xã đạt chuẩn NTM[5] có 5 tỉnh (Nam Định, Đồng Nai, Hà Nam, Hưng Yên và Hải Dương) đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) tiếp tục được các địa phương triển khai đồng bộ, rộng khắp, trở thành một giải pháp được ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn. Cả nước có trên 14.642 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên (tăng 3.586 sản phẩm so với năm 2023) trong đó 73,2% sản phẩm 3 sao, 23,5% sản phẩm 4 sao, 51 sản phẩm 5 sao, còn lại là tiềm năng 5 sao; có 8.086 chủ thể OCOP, trong đó có 32,7% là HTX, 24,1% là doanh nghiệp nhỏ, 42,7% là cơ sở sản xuất/hộ kinh doanh, còn lại là tổ hợp tác.
Công tác phát triển ngành nghề nông thôn, bảo tổn và phát triển làng nghề được duy trì, quan tâm chỉ đạo đi vào thực chất, hiệu quả gắn với xây dựng nông thôn mới và Chương trình OCOP, bảo tồn văn hóa dân tộc. Đến nay, cả nước có 216 nghề truyền thống, 2.039 làng nghề, làng truyền thống được công nhận (tăng 08 làng nghề so với năm 2023); các làng nghề cung cấp việc làm cho hơn 11 triệu lao động trực tiếp và gián tiếp (bao gồm cả lao động trong các cơ sở sản xuất và lao động nông thôn tham gia vào các công đoạn sản xuất).
MỘT SỐ KHÓ KHĂN HẠN CHẾ
Bên cạnh các kết quả đạt được, ngành nông nghiệp vẫn còn gặp những khó khăn, hạn chế cần tập trung khắc phục trong thời gian tới:
(i) Thiên tai, dịch bệnh, lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, thiếu nước sản xuất, công tác phòng chống cháy rừng, ô nhiễm môi trường... có những thách thức lớn, đòi hỏi phải dự báo, ứng phó nhanh, linh hoạt, hiệu quả, giảm thiểu thiệt hại. Sản xuất nông nghiệp tại các vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, Tây Nguyên, Duyên hải Nam trung bộ gặp nhiều khó khăn trong tháng 3 và 4 do khô hạn, xâm nhập mặn tăng cao; sản xuất nông nghiệp và hạ tầng thủy lợi, phòng chống thiên tai bị thiệt hại nghiêm trọng do Bão số 3 và mưa lũ gây ra.
(ii) Tình trạng nhập lậu sản phẩm chăn nuôi qua biên giới, vận chuyển gia súc, gia cầm không rõ nguồn gốc ảnh hưởng đến điều tiết, quản trị sản xuất, kinh doanh, tiềm ẩn nguy cơ lây lan dịch bệnh và tác động đến thu nhập của nông dân, lợi nhuận của doanh nghiệp. Năm 2024 đã ký được Nghị định thư xuất khẩu chính ngạch dừa tươi, sầu riêng đông lạnh; nhưng đến nay chưa xuất khẩu được lô hàng sầu riêng đông lạnh sang Trung Quốc.
(iii) Tuy đã có nhiều nỗ lực, cố gắng triển khai thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU); nhưng Việt Nam vẫn chưa gỡ được “Thẻ vàng” của EC đối với đánh bắt hải sản; sạt lở bờ sông, bờ biển, tiếp tục diễn ra.
(iv) Công tác quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm được tăng cường tuyên truyền, phổ biến; nhưng vẫn xảy ra những vụ việc vi phạm tại một số cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm, gây phản ứng dư luận xã hội. Công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, nhất là ở khâu bảo quản và chế biến sâu, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển mạnh.
(v) Số lượng hợp tác xã nông nghiệp tăng rất chậm về số lượng, hiệu quả không tăng, nhiều hợp tác xã chưa phát huy tốt vai trò kết nối giữa hộ nông dân và doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp tham gia hợp đồng liên kết tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ít về số lượng, quy mô nhỏ; duy trì và phát triển bền vững các liên kết chuỗi giá trị còn hạn chế.
BỐI CẢNH VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG THỜI GIAN TỚI
Tình hình kinh tế thế giới có triển vọng phục hồi, song cũng có nhiều khó khăn, thách thức lớn, tăng trưởng chưa cải thiện rõ nét, bị tác động bởi các yếu tố bất ổn và bất định; xung đột vũ trang, bất ổn chính trị, địa chính trị tiếp tục diễn biến phức tạp, chưa có dấu hiệu kết thúc trong ngắn hạn.... Các dòng thương mại, đầu tư, năng lượng toàn cầu tiếp tục dịch chuyển, dần hình thành cấu trúc mới của kinh tế thế giới và liên kết kinh tế. Các hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán, bão, lũ lụt ảnh hưởng đến mùa màng, đẩy giá thực phẩm tăng cao, đe dọa đến an ninh lương thực toàn cầu; nhiều quốc gia thực thi chính sách bảo hộ hàng hóa sản xuất trong nước, đồng thời đẩy mạnh sản xuất nông sản để chủ động nguồn cung, ứng phó với tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu.
Kinh tế trong nước đang phục hồi, nhưng còn khó khăn, thách thức. Các tổ chức quốc tế đã đưa ra dự báo kinh tế Việt Nam 2025 có thể đạt mức tăng trưởng cao hơn năm 2024. Việt Nam có nhiều triển vọng cải thiện tốc độ tăng trưởng thông qua việc thúc đẩy đầu tư công, tiêu dùng, du lịch; gia tăng đóng góp của số hóa, công nghệ cao vào tăng trưởng, đẩy mạnh quá trình chuyển đổi xanh, tận dụng xu hướng chuyển dịch dòng vốn đầu tư nước ngoài... Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn phải đối mặt với không ít rủi ro, biến động phức tạp, khó lường như: Hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu hàng hóa tiếp tục chịu tác động tiêu cực từ các điểm nóng, xung đột quân sự, chính trị trên thế giới.
Đối với ngành nông nghiệp, nông thôn, tiếp tục chuyển đổi mạnh tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, đẩy mạnh cơ cấu lại ngành theo hướng phát triển nông nghiệp sinh thái, xanh, tuần hoàn gắn với xây dựng nông thôn mới hiện đại, phát triển kinh tế nông thôn và nông dân văn minh; chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, khơi thông các nguồn lực cho phát triển sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông lâm thuỷ sản. Đồng thời, biến đổi khí hậu, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi tiềm ẩn nguy cơ bùng phát, nguy cơ cháy rừng cao ở nhiều địa phương…
MỘT SỐ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM THỜI GIAN TỚI
Một là, kiến tạo không gian phát triển và các động lực tăng trưởng ngành nông nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngành, nâng cao năng suất, chất lượng hàng nông sản và hiệu quả sản xuất, kinh doanh
Tiếp tục chuyển đổi mạnh sang tư duy kinh tế nông nghiệp, đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững, minh bạch, trách nhiệm, tích hợp đa giá trị theo hướng giữ vững an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái; khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn; chú trọng phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao; phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương.
Trong trồng trọt: Phát triển các cây công nghiệp chủ lực đến năm 2030. Phát triển các vùng sản xuất rau an toàn, tập trung bảo đảm truy xuất nguồn gốc gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ đến năm 2030... Phát triển trồng trọt tuần hoàn, phát thải các bon thấp, thân thiện với môi trường. Phát triển các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, chất lượng cao như lúa, rau, hoa, quả đặc sản… gắn với hợp tác, liên kết sản xuất, phát triển chuỗi giá trị; xây dựng mã số vùng trồng gắn với chỉ dẫn địa lý, truy suất nguồn gốc và phát triển thương hiệu.
Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành chăn nuôi phù hợp với bối cảnh mới, phát triển chăn nuôi theo định hướng thị trường. Đẩy mạnh chăn nuôi công nghiệp công nghệ cao với các sản phẩm chủ lực như lợn, bò, gia cầm gắn với xây dựng, phát triển thương hiệu; tiếp tục mở rộng chăn nuôi áp dụng quy trình thực hành nông nghiệp tốt VietGAP, khuyến khích các mô hình liên kết trong chăn nuôi theo hướng sinh thái, xanh, hữu cơ đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Về thuỷ sản, giảm dần sản lượng khai thác ven bờ, đẩy mạnh khai thác xa bờ phù hợp với trữ lượng nguồn lợi thủy sản. Phát triển các đối tượng nuôi chủ lực (tôm sú, tôm thẻ chân trắng, cá tra…) và các loài thủy sản có giá trị kinh tế gắn với lợi thế của từng vùng. Khuyến khích phát triển nuôi trồng trên biển theo quy mô công nghiệp (nhuyễn thể, rong, tảo biển…). Phát triển các vùng nuôi thâm canh ứng dụng công nghệ cao, nuôi an toàn sinh học, nhân rộng các mô hình nuôi theo chuỗi liên kết có hiệu quả kinh tế cao…
Phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững theo hướng phát huy giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng trên cơ sở quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên rừng; bảo vệ và phát triển bền vững 100% diện tích rừng hiện có. Đẩy mạnh triển khai dịch vụ hấp thụ, lưu giữ cácbon và phát triển nhanh thị trường tín chỉ các bon rừng. Tăng cường công tác bảo vệ rừng; ngăn chặn và xử lý kịp thời, có hiệu quả các hành vi vi phạm quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.
Tăng cường và nâng cao năng lực chế biến, nhất là chế biến sâu, chế biến tinh để nâng cao năng suất, chất lượng hàng nông lâm thủy sản, gắn với xác nhận xuất xứ và nguồn gốc sản phẩm (đặc biệt là nông sản chủ lực phục vụ xuất khẩu); thúc đẩy hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị ngành hàng, hình thành các vùng sản xuất tập trung từ nguyên liệu - chế biến - thị trường.
Hai là, phát triển mạnh thị trường tiêu thụ nông lâm thủy sản cả trong nước và xuất khẩu
Đối với thị trường xuất khẩu: Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở cửa thị trường, đàm phán để tháo gỡ rào cản kỹ thuật, rào cản thương mại và mở cửa thị trường xuất khẩu chính ngạch thêm nhiều nông sản vào thị trường truyền thống, các thị trường có tổng kim ngạch xuất khẩu lớn (Trung Quốc, Hoa Kỳ, EU, Nga, Brazil, Nhật Bản, Hàn Quốc...); mở cửa các thị trường mới, còn nhiều tiềm năng như: thị trường các nước Hồi giáo Halal, Trung Đông, châu Phi... Tích cực triển khai chủ động, hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTAs), nhất là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP, EVFTA và các hiệp định song phương với các nước. Thực hiện nghiêm việc đáp ứng các quy định về tem nhãn, truy xuất nguồn gốc, chỉ dẫn vùng trồng, kiểm nghiệm, kiểm dịch, quy cách đóng gói, chất lượng, chủng loại nông sản; đăng ký mã cơ sở đóng gói, mã số doanh nghiệp.
Đối với thị trường trong nước: Hỗ trợ kết nối, thúc đẩy chế biến, tiêu thụ trong nước, triển khai các giải pháp khắc phục tình trạng dư thừa, giảm giá gây thiệt hại cho người sản xuất; dự báo và phối hợp với các địa phương xây dựng phương án hỗ trợ tiêu thụ kịp thời nông sản chính vụ; Ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số; phối hợp tổ chức kết nối thu mua nông sản, đẩy mạnh tiêu thụ nông sản trong các hệ thống, chuỗi siêu thị lớn, các sàn thương mại điện tử (Postmart, Shopee, Tiki, Lazada, Tiktok, Zalo…). Phối hợp đẩy mạnh việc xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu chứng nhận, chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm thế mạnh của địa phương và các sản phẩm quốc gia, sản phẩm vùng. Nâng cao hiệu quả truyền thông quảng bá giới thiệu sản phẩm.
Ba là, phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên
Tăng cường đầu tư xây dựng công trình, nhất là công trình thủy lợi và áp dụng khoa học công nghệ để tăng thêm năng lực tưới, tiêu; quản lý tốt nguồn nước của các lưu vực sông và hệ thống thuỷ lợi, nhất là các hồ chứa, bảo đảm các quá trình khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, phục vụ có hiệu quả sự phát triển kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài. Cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới cơ sở hạ tầng thủy sản; nâng cao năng lực hệ thống cơ sở nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ, ưu tiên cho các chương trình, dự án nghiên cứu, sản xuất ứng dụng công nghệ cao; hệ thống các cơ sở đào tạo của Ngành.
Bốn là, đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp; các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị, kết nối hệ thống tiêu thụ toàn cầu
Hỗ trợ các hợp tác xã liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị thông qua sản xuất kinh doanh các sản phẩm chủ lực, ứng dụng công nghệ cao, áp dụng quy trình sản xuất có chứng nhận, kết nối thị trường. Đổi mới, nâng cao vai trò của các hội, hiệp hội trong tham gia trong xây dựng chính sách, điều hành thị trường, cung cấp thông tin, kết nối thị trường, làm cầu nối giữa doanh nghiệp và người sản xuất. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội ngành hàng, liên hiệp hợp tác xã. Tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị ngành hàng, sản phẩm. Phát triển các vùng sản xuất tập trung, gắn với công nghiệp chế biến, phát triển thương hiệu nông sản vùng, miền, địa phương phục vụ nhu cầu xuất khẩu. Thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp. Khơi dậy tinh thần khởi nghiệp; thực hiện “đồng hành” và tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp đầu tư, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp số, sạch, hữu cơ. Sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nông nghiệp, các công ty nông, lâm nghiệp.
Năm là, thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, công nghệ sạch vào sản xuất; phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; chủ động hội nhập quốc tế để mở cửa thị trường
Nâng cao trình độ nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ, giải quyết các khâu then chốt phát triển nông nghiệp, tập trung vào các sản phẩm chủ lực xuất khẩu, sản xuất giống có năng suất, chất lượng cao, có khả năng chống bệnh và thích ứng với biến đổi khí hậu; công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch. Đổi mới mạnh mẽ hình thức tổ chức và hoạt động khuyến nông, đảm bảo tinh gọn, hiệu quả, phù hợp với từng loại hình sản xuất và địa phương; tăng cường phối hợp khuyến nông nhà nước với khuyến nông doanh nghiệp để chuyên giao, nhân rộng, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Phát triển các tổ chức trung gian kết nối công nghệ (sàn giao dịch công nghệ, trung tâm xúc tiến và hỗ trợ đổi mới sáng tạo, cơ sở ươm tạo công nghệ… khuyến nông điện tử, khuyến nông cộng đồng, sàn giao dịch công nghệ…) để cung cấp dịch vụ thông tin, tư vấn, môi giới công nghệ cho doanh nghiệp khởi nghiệp, trang trại, hợp tác xã. Xây dựng kinh tế số trong nông nghiệp, thúc đẩy chuyển đổi số trong sản xuất, kinh doanh, chuỗi giá trị ngành hàng; ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong chỉ đạo, điều hành.
Cùng với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự vào cuộc của các Bộ, ngành, địa phương, nỗ lực phấn đấu vươn lên của các doanh nghiệp, hợp tác xã và hàng triệu hộ nông dân, trong thời gian tới ngành nông nghiệp, nông thôn sẽ phát triển mạnh mẽ, tiếp tục khẳng định vị thế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân./.
[1]Trong đó: sang cây hàng năm 76,7 nghìn ha; sang cây lâu năm 23,1 nghìn ha; sang nông lâm thủy sản kết hợp trồng lúa 16,3 nghìn ha.
[2] Gỗ và sản phẩm gỗ 16,2 tỷ USD (tăng 20,3%); Rau quả 7,12 tỷ USD (tăng 27,1%); Gạo 5,75 tỷ USD (tăng 23% với lượng 9,18 triệu tấn, tăng 12,9%); Cà phê 5,48 tỷ USD (tăng 29,1% với lượng 1,32 triệu tấn, giảm 18,8%); Hạt điều 4,38 tỷ USD (tăng 20,2% với lượng 729,5 nghìn tấn, tăng 13,3%); Tôm 3,86 tỷ USD (tăng 14%); Cao su 3,46 tỷ USD (tăng 19,6% với lượng 2,03 triệu tấn, giảm 5,2%).
[3] Các hợp tác xã đã thu hút 4,15 triệu thành viên, doanh thu bình quân 01 hợp tác xã đạt 2,7 tỷ đồng/năm (đạt 108% kế hoạch); lợi nhuận bình quân 450 triệu đồng/hợp tác xã/năm; thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên hợp tác xã nông nghiệp đạt 56 triệu đồng/năm (đạt 105,6 % kế hoạch)
[4] trong đó: 3.308 trang trại trồng trọt, 12.349 trang trại chăn nuôi, 133 trai trại lâm nghiệp, 1.810 trang trại nuôi thủy sản, 2.060 trang trại tổng hợp
[5] Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Ninh Bình, Quảng Ninh, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ, Bạc Liêu, Trà Vinh, Hà Tĩnh, Tiền Giang, Đồng Tháp.
Bình luận