Lê Thị Tố Nga

Phân hiệu Học viện Hành chính và Quản trị công tại Thành phố Đà Nẵng

NCS Viện Kinh tế - Xã hội và Môi trường, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Tóm tắt

Phát triển khu công nghiệp sinh thái là một định hướng quan trọng nhằm kết hợp giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Trong tiến trình này, vai trò hỗ trợ của nhà nước giữ vị trí then chốt, quyết định mức độ thành công của các mô hình khu công nghiệp sinh thái. Thông qua quá trình khảo cứu hơn 100 công bố trong và ngoài nước, kết hợp với phương pháp thống kê mô tả, thống kê tần số trên phần mềm SPSS 25.0, nghiên cứu này đã hệ thống hóa các quan điểm nghiên cứu, chỉ ra khoảng trống trong lý luận và thực tiễn về hỗ trợ phát triển khu công nghiệp sinh thái, đồng thời gợi mở hướng nghiên cứu tiếp theo nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách phát triển khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam.

Từ khoá: Khu công nghiệp sinh thái, chính sách phát triển khu công nghiệp sinh thái, phát triển bền vững, chuyển đổi xanh

Abstract

Developing eco-industrial parks (EIPs) is regarded as an important orientation for promoting sustainable growth by integrating economic development with environmental protection. In this process, the supportive role of the State is crucial in determining the success of EIP models. Drawing on more than 100 domestic and international publications, combined with descriptive and frequency statistics analyzed using SPSS 25.0 software, this article systematizes research perspectives, identifies theoretical and practical gaps in supporting EIP development, and proposes future research directions to enhance the effectiveness and efficiency of policies for developing EIPs in Vietnam.

Keywords: Eco-industrial park, eco-industrial park development policy, sustainable development, green transformation

ĐẶT VẤN ĐỀ

Khu công nghiệp sinh thái (KCNST) được coi là một giải pháp bền vững cho phát triển khu công nghiệp (KCN) trên thế giới. KCNST là một cộng đồng các doanh nghiệp sản xuất và cung cấp dịch vụ cùng hoạt động trên một khu đất chung đang tìm cách nâng cao hiệu quả kinh tế và môi trường thông qua hợp tác quản lý các vấn đề môi trường và tài nguyên để tìm kiểm cải thiện hiệu quả môi trường, kinh tế và xã hội. Bằng cách làm việc cùng nhau, cộng đồng các doanh nghiệp tìm kiếm lợi ích tập thể lớn hơn tổng lợi ích cá nhân mà mỗi doanh nghiệp sẽ nhận được nếu chỉ tối ưu hoá hiệu quả hoạt động của từng cá nhân (Lowe, 1997).

Thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu được thực hiện về lý luận cũng như mô tả thực tiễn triển khai KCNST ở các địa phương hay các quốc gia, phân tích vai trò hỗ trợ của nhà nước đối với quá trình phát triển các KCNST. Nghiên cứu này nhằm hệ thống hoá các cơ sở lý luận và thực tiễn trong các công trình nghiên cứu đi trước ở trong và ngoài nước về KCNST và phát triển KCNST, hỗ trợ của nhà nước (bao gồm cả chính quyền trung ương và chính quyền địa phương) về phát triển KCNST trên các khía cạnh như chủ thể hỗ trợ, cơ chế và phương thức hỗ trợ, công cụ hỗ trợ, nội dung hỗ trợ. Kết quả tổng quan cho thấy nhà nước không chỉ đóng vai trò tạo lập thể chế, hoạch định chính sách, ban hành khung pháp lý mà còn là chủ thể thúc đẩy hành động tập thể và hỗ trợ về tài chính, hạ tầng, thông tin cho phát triển KCNST. Tiếp cận vấn đề phát triển KCNST từ góc độ quản lý kinh tế, nghiên cứu cũng xác định các khoảng trống nghiên cứu, trên cơ sở đó gợi mở hướng nghiên cứu tiếp theo nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả ban hành và thực thi chính sách tại Việt Nam.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để thực hiện nghiên cứu của mình, nhóm tác giả đã sử dụng cơ sở dữ liệu Web of Sciences và tìm kiếm các thuật ngữ: “phát triển KCNST”, “tiêu chí đánh giá phát triển KCNST”, “chương trình phát triển KCNST”, “vai trò của nhà nước trong phát triển EIP”. Đối với các công trình nghiên cứu của Việt Nam, nhóm tác giả tiến hành tìm kiếm trên hệ thống cơ sở dữ liệu của Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam (vista.gov.vn) với các từ khoá tương tự. Kết quả cho ra 125 công trình có liên quan. Sau khi loại bỏ các tài liệu không truy cập được, chúng tôi quét các bản tóm tắt để chọn những tài liệu liên quan đến chủ đề nghiên cứu hiện tại. Kết quả còn lại 109 công trình nghiên cứu đại diện cho 23 quốc gia khác nhau trên toàn thế giới trong khoảng thời gian từ những năm 1983 cho đến năm 2025. Mỗi công bố được chọn trích dẫn trong nghiên cứu này đều được xem xét thủ công về mức độ phù hợp thông qua việc đánh giá tên, phần tóm tắt, phương pháp nghiên cứu và nội dung. Dữ liệu được tổng hợp bằng microsoft excel và xử lý trên phần mềm SPSS 25.0.

KẾT QUẢ LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU

Về chủ thể hỗ trợ sự phát triển của khu công nghiệp sinh thái

Hầu hết các nghiên cứu đều cho rằng, trong các yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của KCNST, nhà nước có một vai trò vô cùng quan trọng. Nhiều nghiên cứu đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ thống các cơ quan công quyền trong việc hỗ trợ phát triển KCNST và các khía cạnh môi trường liên quan. Trong các công trình được tổng quan, nhà nước được nhìn nhận như là một chủ thể quản lý, là các cơ quan công quyền thực hiện chức năng xây dựng thể chế, tổ chức thi hành và kiểm tra, kiểm soát nhằm quản lý và định hướng hoạt động của các KCNST và được gọi tên bằng nhiều thuật ngữ khác nhau như nhà nước, chính phủ, chính quyền địa phương, các tổ chức công, các tác nhân công, các chủ thể công… bao gồm các cơ quan lập pháp tiểu bang; các đô thị địa phương; chính quyền địa phương, quốc gia, hoặc chính quyền tiểu bang và các cơ quan môi trường quốc gia. Một số các công trình khác khi xem xét vai trò của nhà nước chủ yếu tiếp cận ở góc độ của cơ quan hành pháp tối cao là chính phủ.

Cơ chế hỗ trợ phát triển của khu công nghiệp sinh thái

Các công trình nghiên cứu cho thấy, cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển KCNST của nhà nước ảnh hưởng đến sự phát triển của KCNST theo 2 hình thức: Hỗ trợ trực tiếp và hỗ trợ gián tiếp. Nhóm hỗ trợ trực tiếp bao gồm các quy định pháp lý về KCNST và các hỗ trợ tài chính trực tiếp cho sự phát triển của KCNST (Daddi, 2016). Ở Trung Quốc, ảnh hưởng của các chính sách được thể hiện rõ ràng nhất dưới dạng cơ chế cưỡng chế.

Trong khi đó, Hàn Quốc đã xây dựng nền tảng về cơ sở chính sách nhằm tạo ra khuôn khổ chung cho các ngành công nghiệp về môi trường, cũng như việc tạo điều kiện cho việc quay vòng, sử dụng nguồn vật chất đầu ra (Trịnh Thị Tuyết Dung, 2021). Còn theo Van Beers và cộng sự (2007), khung pháp lý của Australia đặt ra những thách thức đặc biệt đối với sự phát triển cộng sinh công nghiệp - một trong những phương pháp hiệu quả nhất để đưa nền kinh tế hiện tại đến gần hơn với nền kinh tế tuần hoàn - ở quốc gia này. Chính phủ Nhật Bản cũng đã thiết lập một khung pháp lý toàn diện để hướng tới một xã hội dựa vào tái chế trong Chương trình Thị trấn Sinh thái (Hari, 2024). Bên cạnh những hỗ trợ mang tính thúc đẩy, một bằng chứng từ Brasil cho thấy, các tác động từ phía hỗ trợ của nhà nước cũng có tác động ngược lại. Khi những hỗ trợ của nhà nước bị hạn chế, các KCNST đã thất bại (Lilian và cộng sự, 2009).

Nhóm các hỗ trợ gián tiếp bao gồm những chính sách, quy định không đề cập trực tiếp đến KCNST nhưng gián tiếp tác động thúc đẩy hoặc hạn chế các hoạt động của KCNST (Perruci và cộng sự, 2022). Hỗ trợ gián tiếp được thực hiện thông qua việc ban hành các quy định nghiêm ngặt về bảo vệ môi trường hay tiêu chuẩn thực hiện các giải pháp môi trường nhằm thúc đẩy DN đáp ứng thông qua các biện pháp tái sử dụng các sản phẩm phụ hoặc liên kết với nhau để giảm chi phí sản xuất. Ehrenfeld và cộng sự (1997) cho rằng, sự cộng sinh công nghiệp ở Kalundborg bên cạnh các lý do tự phát của các DN nhằm tìm cách tận dụng các sản phẩm phụ một cách kinh tế, một yếu tố khác là nỗ lực để giảm thiểu chi phí tuân thủ các quy định về môi trường mới và ngày càng chặt chẽ hơn từ phía nhà nước.

Các mối cộng sinh công nghiệp tương tự ở Áo, Đức, Phần Lan và nhiều khu phức hợp hóa dầu của Mỹ và châu Âu cũng được các nhà nghiên cứu tìm thấy. Ở Tuscany (Ý), các chủ thể công địa phương đã tạo ra một chương trình chứng nhận môi trường tự nguyện cho các KCNST để thu hút các chủ thể khác nhau cùng hợp tác phát triển KCNST. Tuy nhiên, để thực hiện các hỗ trợ gián tiếp có hiệu quả, Perrucci và các cộng sự (2022) cho rằng các quy định đối với KCNST cần đảm bảo linh hoạt hơn là cụ thể. Các chính sách có thể hướng tới các khía cạnh khác của quy định môi trường và mặc dù không trực tiếp đề cập đến các KCNST nhưng nó có thể mang lại những lợi ích gián tiếp.

Một số công trình khác phân chia cơ chế tác động của nhà nước đến phát triển KCNST theo 3 hướng: từ trên xuống (top - down), từ dưới lên (bottom - up) và tác động kết hợp. Mô hình bottom - up (từ dưới lên) là mô hình trong đó sức mạnh tổng hợp được phát sinh một cách tự phát thông qua hoạt động tự tổ chức của các DN trong khi mô hình thứ hai (top - down) được thực hiện thông qua quá trình lập kế hoạch tổ chức và vận hành của các chính phủ (Chertow, 2012; Mellisa và cộng sự, 2022). Ngoài ra, Park và cộng sự (2016) đã đề xuất mô hình kết hợp trên cơ sở mô tả cách tiếp cận KCNST Hàn Quốc.

Về công cụ hỗ trợ phát triển của khu công nghiệp sinh thái

Các kết quả nghiên cứu cho thấy, nhà nước tác động đến các KCNST thông qua 2 nhóm công cụ cơ bản: nhóm thứ nhất là các công cụ kinh tế liên quan bao gồm trợ cấp tài chính và giảm thuế. Nhóm thứ hai chính là các khung pháp lý cho việc phát triển KCNST, trong đó bao gồm cả việc áp đặt các giới hạn đối với vấn đề xử lý một số dòng chất thải nhất định. Theo Daddi và cộng sự (2016), các chính sách được áp dụng để phổ biến KCNST có thể được phân loại theo 2 loại phương pháp tiếp cận môi trường chính: (1) trực tiếp quy định (còn được gọi là “chỉ huy và kiểm soát”) và các công cụ kinh tế (đặc biệt là trợ cấp tài chính); và (2) công cụ tự nguyện. Các công cụ điều tiết và kinh tế trực tiếp dường như được chính phủ ưa chuộng hơn, trong khi chính quyền địa phương có xu hướng áp dụng các công cụ tự nguyện nhiều hơn. Sự phát triển cộng sinh công nghiệp ở thành phố Ulsan (Hàn Quốc), được thúc đẩy bởi các sáng kiến ​​điều chỉnh trực tiếp bao gồm luật pháp nghiêm ngặt và các tiêu chuẩn môi trường (Park và cộng sự, 2016). Trong quá trình phát triển công nghiệp ở Thiên Tân (Trung Quốc), trợ cấp địa phương cho cơ sở hạ tầng chất lượng cao đã kích thích sự phát triển của nhiều mối quan hệ cộng sinh (Yu và cộng sự, 2014). Đan Mạch lựa chọn sử dụng nghiêm ngặt các công cụ quản lý và kinh tế, trong khi Anh, Bồ Đào Nha và Thụy Sĩ áp dụng kết hợp các công cụ chính sách, bao gồm cả các công cụ tự nguyện (Felicio và cộng sự, 2013). Ở Brazil, các nhà hoạch định chính sách sử dụng cách tiếp cận “ra lệnh và kiểm soát” đối với quá trình thực hiện công nghiệp sinh thái. Ngoài ra, để đảm bảo cho các KCNST đạt được các mục tiêu kinh tế và sinh thái, Cheol và các cộng sự (2023) đã mô tả chiến lược phát triển công nghiệp sinh thái của Hàn Quốc như là một công cụ hỗ trợ hiệu quả nhằm thúc đẩy hiệu suất của các dự án phát triển KCNST bao gồm: xây dựng mạng lưới lưu thông tài nguyên (mạng lưới cộng sinh công nghiệp); khuyến khích các cụm công nghiệp thân thiện với môi trường, có thiết kế xanh; thúc đẩy sự hợp tác và hỗ trợ giữa các bên liên quan; truyền bá thành tựu của các dự án KCNST. Yuan và cộng sự (2019) khi phân tích các công cụ chính sách để thúc đẩy triển khai cộng sinh công nghiệp ở Trung Quốc, đã tổng hợp thành 10 loại công cụ theo mức độ ảnh hưởng đến hành vi của các DN, bao gồm: giáo dục, hướng dẫn công nghiệp, chương trình hỗ trợ, nghĩa vụ kinh tế, xử phạt hành chính, giám sát của cộng đồng, danh sách đen, danh sách vàng, trợ cấp và giảm hoặc miễn thuế.

Nội dung hỗ trợ phát triển khu công nghiệp sinh thái

Uusikartano và các cộng sự (2021) cho rằng, vai trò của các chủ thể công đối với các KCNST được xem xét ở 6 khía cạnh: nhà điều hành, nhà tổ chức, nhà tài trợ, người hỗ trợ, nhà hoạch định chính sách và nhà quản lý. Boons và các cộng sự (2011) trên cơ sở phân chia hệ thống công nghiệp thành 2 cấp độ: khu vực (RIS - một tập hợp ít nhiều ổn định của các DN nằm gần nhau, nơi các DN về nguyên tắc có thể phát triển các kết nối xã hội và vật chất/năng lượng nhờ sự gần gũi đó) và cấp độ xã hội. Ở cấp độ RIS, chính quyền địa phương và các chủ thể khác (người tiêu dùng, công dân, tổ chức giáo dục, tổ chức phi chính phủ) có thể tham gia vào các nỗ lực tăng cường tính bền vững của RIS. Ở cấp độ xã hội, các tác nhân có thể tham gia vào việc phổ biến sự cộng sinh công nghiệp, bao gồm cả triết lý và lý luận cơ bản. Một số cơ chế phổ biến được đề xuất bao gồm: ép buộc; bắt chước; dự án trình diễn; đào tạo và chuyên nghiệp hóa; thay đổi các điều kiện biên (Salas và các cộng sự, 2021). Còn theo Yu và các cộng sự (2014), nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong 5 hoạt động chính ảnh hưởng đến sự thay đổi và phát triển KCNST bao gồm: (1) hoạt động thể chế (2) hỗ trợ kỹ thuật (3) hỗ trợ kinh tế và tài chính (4) hoạt động thông tin và (5) hoạt động của DN.

Costa và cộng sự (2010) đã mô tả quá trình hỗ trợ của chính phủ và chính quyền địa phương cho sự hình thành mô hình KCNST ở Chamusca (Bồ Đào Nha). Theo đó, các hỗ trợ ở đây được đặc trưng bởi các khía cạnh: khuôn khổ của chính phủ; bối cảnh chính sách; yêu cầu quản lý chất thải. Theo các tác giả, ở Bồ Đào Nha, chính phủ tác động đến bối cảnh chính sách và kinh tế trong quản lý chất thải; trong khi ở cấp địa phương, chính quyền địa phương điều phối các hoạt động để tác động đến các yếu tố xã hội, kinh tế và thông tin.

Hanshi và các cộng sự (2010) trong nghiên cứu về kinh nghiệm của Khu phát triển kinh tế - công nghệ Thiên Tân (Trung Quốc) cho rằng, với các chiến lược và chính sách phát triển hợp lý, tập trung vào phát triển môi trường thể chế, phát triển hạ tầng công cộng; phát triển công nghệ quan trọng hỗ trợ cộng sinh công nhiệp và sản xuất sạch hơn; hỗ trợ vốn; phối hợp các bên liên quan và phổ biến thông tin, Thiên Tân đã có những thành tựu nổi bật trong phát triển KCNST, cung cấp một minh chứng thực tiễn vô cùng sinh động cho các quốc gia và các KCN trên thế giới trên hành trình chuyển đổi, phát triển KCNST.

Ở Việt Nam, Phạm Hồng Điệp và Đặng Việt Bách (2023) đã khái quát quá trình chuyển đổi KCNST tiến đến xây dựng KCNST kinh tế tuần hoàn tại KCN Nam Cầu Kiền (Hải Phòng) với vai trò chủ đạo của chủ đầu tư. Công trình đã khảo sát các tiêu chí xây dựng KCNST- Kinh tế tuần hoàn dựa trên các tiêu chí được quy định tại Nghị định số 82/2018/NĐ-CP và phát triển thành 4 tiêu chí chung phù hợp với KCN Nam Cầu Kiền, từ đó đề xuất bộ tiêu chí kinh tế tuần hoàn trong KCN Việt Nam - nhìn từ trường hợp KCNST Nam Cầu Kiền - tiếp cận theo 2 phương pháp: theo quy mô nền kinh tế (hoặc thành lập các không gian địa lý) và theo nhóm ngành, sản phẩm, nguyên vật liệu.

KẾT LUẬN VÀ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO

Kết luận

Về lý luận, các công trình nghiên cứu đã làm rõ cơ sở lý luận về phát triển KCNST cũng như những hỗ trợ từ phía nhà nước đối với phát triển KCNST:

Một là, các nghiên cứu đã từng bước làm rõ những điểm mấu chốt trong lý thuyết về phát triển KCNST.

Hai là, các công trình công bố đã phân tích những vai trò khác nhau của nhà nước trong việc hỗ trợ sự phát triển của các KCNST từ những phương diện tiếp cận khác nhau. Một số công trình đã xây dựng được khung lý thuyết tổng quát về hỗ trợ của các chủ thể công nói chung, của nhà nước nói riêng đối với quá trình phát triển của KCNST. Trong đó, tập trung làm rõ tính đặc thù cũng như xu hướng của các biện pháp hỗ trợ của nhà nước. Đồng thời, cũng khẳng định được vai trò không thể thiếu của nhà nước trong quá trình tổ chức và vận hành các KCNST.

Ba, các công trình đi trước đã thống nhất khẳng định vai trò không thể thiếu của chính quyền địa phương trong phát triển KCNST như là một chủ thể trung gian, cầu nối giữa chính phủ quốc gia và DN, điều phối các chính sách của nhà nước phù hợp với bối cảnh và điều kiện cụ thể của địa phương.

Về thực tiễn, các công trình này đã có những đóng góp quan trọng về mặt thực tiễn cho sự phát triển của KCNST ở khắp nơi trên thế giới. Cụ thể:

Một là, các công trình nghiên cứu đã mô tả và phân tích sự hình thành, chuyển đổi cũng như quá trình vận động và phát triển của các KCNST. Qua đó, khái quát được các xu hướng phát triển khác nhau của các KCNST tuỳ thuộc vào các điều kiện về địa lý, về kinh tế - xã hội, môi trường pháp lý… Thực tiễn phát triển của mỗi KCNST đều là những bằng chứng sinh động và cụ thể, thiết thực cho các KCN, các quốc gia, các địa phương trên thế giới tham khảo và vận dụng.

Hai là, trong các nghiên cứu của mình, các tác giả đã đi sâu phân tích xu hướng, phương pháp, công cụ, cách thức hỗ trợ của nhà nước ở các KCNST cụ thể; chỉ ra mối quan hệ giữa các hỗ trợ này với kết quả phát triển các KCNST. Các hỗ trợ tuỳ theo loại hình và cách thức có thể có những tác động cùng chiều hay ngược chiều đối với tiến trình của các KCNST.

Định hướng nghiên cứu tiếp theo

Từ những kết quả tổng quan, có thể thấy rằng, mặc dù các công trình nghiên cứu đã làm rõ nền tảng lý luận và thực tiễn về hỗ trợ của nhà nước đối với phát triển KCNST, song vẫn còn nhiều khoảng trống cần tiếp tục được nghiên cứu.

Trước hết, cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn về hiệu quả của từng loại công cụ hỗ trợ chính sách, đặc biệt là so sánh giữa các công cụ pháp lý, kinh tế và thông tin nhằm xác định đâu là nhóm công cụ tạo tác động mạnh mẽ nhất đến hành vi của doanh nghiệp trong KCNST.

Tiếp đến, các nghiên cứu trong tương lai nên đi sâu phân tích cơ chế quản trị đa cấp và sự phối hợp giữa các cấp chính quyền, làm rõ cách thức chính quyền trung ương và địa phương phối hợp trong việc thực thi chính sách và hỗ trợ doanh nghiệp.

Một hướng nghiên cứu khác cần được chú trọng là hành vi và động lực của doanh nghiệp trước chính sách hỗ trợ, qua đó đánh giá mức độ sẵn sàng, khả năng hấp thụ và những rào cản trong việc tham gia cộng sinh công nghiệp.

Bên cạnh đó, các công trình tiếp theo nên tập trung phân tích cơ chế tài chính bền vững cho phát triển KCNST, bao gồm khả năng huy động vốn xanh, quỹ môi trường, cơ chế đối tác công - tư, cũng như tác động của các cơ chế thị trường như tín chỉ carbon.

Trong bối cảnh chuyển đổi số, việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ số và dữ liệu lớn trong quản lý, giám sát và kết nối cộng sinh công nghiệp cũng là một hướng đi mới mẻ và có nhiều tiềm năng.

Cuối cùng, cần mở rộng các nghiên cứu so sánh kinh nghiệm quốc tế với bối cảnh Việt Nam, nhằm đề xuất những mô hình hỗ trợ phù hợp với điều kiện thể chế, nguồn lực và nhu cầu phát triển cụ thể của các địa phương.

Những hướng nghiên cứu này không chỉ có ý nghĩa bổ sung về mặt học thuật mà còn tạo cơ sở thực tiễn để Nhà nước hoàn thiện vai trò hỗ trợ đối với sự phát triển của KCNST tại Việt Nam trong thời gian tới.

Tài liệu tham khảo:

1. Boons, F.A., Baas, L., Bouma, J.J., De Groene, A., Le Blansch, K., (2000). The Changing Nature of Business: Institutionalisation of Green Organisational Routines in the Netherlands 1986e1995. International Books, Utrecht.

2. Beijia Huang et al (2019), Review of the development of China’s Eco-industrial Park standard system, Resources, Conservation & Recycling 140, p.137-144.

3. Costa I. and Paulo Ferrão (2010), A case study of industrial symbiosis development using a middle-out approach, Journal of Cleaner Production 18, 984 - 992, doi:10.1016/j.jclepro.2010.03.007.

4. Gallopoulos, Robert A. Frosch and Nicholas E (1989), Strategies for Manufacturing, Scientific American 261(3), p. 144-152;

5. Geng, Y., Zhang, P., Côté, R.P., Fujita, T. (2009), Assessment of the national eco-industrial park standard for promoting industrial symbiosis in China, Journal Industrial Ecology, 3, p.15-26;

6. Geng et al (2016), Recent progress on innovative eco-industrial development, Journal of Cleaner Production Volume 114, p. 1-10, https://doi.org/10.1016/j.jclepro.2015.09.051;

7. Gibbs, D., Deutz, P. (2007), Reflections on implementing industrial ecology through eco-industrial park development, Journal of Cleaner Production, p. 1683-1695;

8. Gibbs David, and Pauline Deutz (2005), Implementing industrial ecology? Planning for eco-industrial parks in the USA, Geoforum 36(4), p.452-464;

9. GraedelT, AllenbyB. (1995), Journal Industrial Ecology, Englewood Cliffs, NJ: Prentice Hall: 9;

10. Guillermo Valenzuela-Venega, J. Cristian Salgado, Felipe A. D ́ıaz-Alvarado (2016), Sustainability Indicators for the Assessment of Eco-Industrial Parks: classification and criteria for selection, Journal of Cleaner Production 133, p.99-116; DOI: 10.1016/j.jclepro.2016.05.113;21.

11. HanShi và cộng sự (2010), Developing country experience with eco-industrial parks: a case study of the Tianjin Economic-Technological Development Area in China, Journal of Cleaner Production 18, http://doi:10.1016/j.jclepro.2009.10.002;

12. Haoran Zhao, Sen Guo, Huiru Zhao (2018), Comprehensive benefit evaluation of eco-industrial parks by employing the best-worst method based on circular economy and sustainability, Environment Development Sustainable 20, 1229-1253;

13. Hao Yu et al (2023), Industrial symbiosis promoting material exchanges in Ulan Buh Demonstration Eco-industrial Park: A multi-objective MILP model, Journal of Cleaner Production, Volume 414, 137578, DOI: https://doi.org/10.1016/j.jclepro.2023.137578;

14. Hari Srinivas (2024), Environmentally-Sensitive Industrial Development: Policy Lessons Learnt from Ecotowns In Japan, GDRC Research Output - Case Study Series E-138, Kobe, https://www.grdc.org/sustbiz/ecotown/index.html;

15. Heeres et al (2004), Eco-industrial park initiatives in the USA and the Netherlands: first lessons, Journal of Cleaner Production 12 985-995, doi:10.1016/j.jclepro.2004.02.014;

16. Nguyễn Việt Hưng (2021), Nghiên cứu về sự phát triển khu công nghiệp sinh thái tại Trung Quốc và khuyến nghị đối với Việt Nam, Tạp chí Công thương số 15, tr. 210-215;

17. Nguyễn Cao Luận (2015), Phát triển khu công nghiệp sinh thái ở Đà Nẵng, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, tr.41-43.

18. Nguyễn Cao Luận (2016), Phát triển các khu công nghiệp theo hướng bền vững ở Đà Nẵng, Luận án tiến sĩ Kinh tế phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

19. Phạm Hồng Điệp, Đặng Việt Bách (2023), Kinh tế tuần hoàn, định dạng và phát triển bền vững ở KCNST Nam Cầu Kiền, NXB Tri thức, Hà Nội;

20. Trần Duy Đông (2020), Phát triển khu công nghiệp sinh thái ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Quản lý kinh tế, Học viện Khoa học xã hội;

21. Vương Thị Minh Hiếu và cộng sự (2021), Thí điểm chuyển sang mô hình khu công nghiệp sinh thái tại KCN Trà Nóc 1& 2 (Cần Thơ). Tạp Chí Môi trường số 6, tr.51-54;14.

Ngày nhận bài: 27/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 20/9/2025; Ngày duyệt đăng: 29/9/2025