Đồng chí Lê Quang Mạnh, Bí thư Thành ủy Cần Thơ đã nhấn mạnh điều này tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, sáng 28/1.

Đồng chí Lê Quang Mạnh, Bí thư Thành ủy Cần Thơ báo cáo tham luận tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, sáng 28/1.

Khoa học, công nghệ đã mang tới nhiều thành công cho “vựa lúa” ĐBSCL

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với diện tích 3,94 triệu héc-ta, chiếm 12% tổng diện tích cả nước; dân số 17,5 triệu người, chiếm 21% dân số cả nước; là vùng đất màu mỡ, điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và thuỷ sản.

Đặc biệt, ĐBSCL có một vị trí địa kinh tế và địa chính trị quan trọng vì nằm ở trung tâm khu vực ASEAN, có lợi thế phát triển kinh tế biển, biên mậu và giao thương quốc tế.

Nhìn lại lịch sử phát triển của ngành nông nghiệp vùng ĐBSCL, đồng chí Lê Quang Mạnh chỉ rõ, từ giai đoạn 1975-1986 khi cả nước tập trung phục hồi kinh tế và thiếu lương thực, dịch rầy nâu hoành hành trên lúa ở các tỉnh, tạo ra bối cảnh rất khó khăn cho phát triển nông nghiệp, Nhà nước chủ trương ĐBSCL phải phát triển sản xuất lúa vì mục tiêu an ninh lương thực quốc gia.

Các nhà khoa học từ các viện, trường trong và ngoài vùng ĐBSCL đã tập trung nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ cho cây lúa theo hướng tiếp cận đa ngành về lai tạo giống mới, cải tiến kỹ thuật canh tác; quản lý, sử dụng đất và nước, mở rộng diện tích, thâm canh và tăng vụ… đã đem lại thành công rất lớn; từ quốc gia thiếu đói đã trở thành nước xuất khẩu gạo và tiếp tục tăng nhanh trong những năm qua; sản lượng lúa của Vùng đã tăng từ 19 triệu tấn năm 1989 lên khoảng 43 triệu tấn năm 2019, theo đó sản lượng gạo xuất khẩu tăng từ 1,3 triệu tấn lên 6,5-7 triệu tấn/năm đạt giá trị xuất khẩu từ khoảng 0,4 tỷ USD lên khoảng 3,2 - 3,5 tỷ USD/năm.

Hiện nay, nước ta đang được xếp thứ 4 về sản xuất và thứ 5 về xuất khẩu thủy sản của thế giới; sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam chiếm khoảng 20% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới.

Ngành nông nghiệp ĐBSCL đang chiếm 47% diện tích và 55% sản lượng lúa, hơn 90% lượng gạo xuất khẩu, 70% diện tích và sản lượng thủy sản của cả nước và đang duy trì tốc độ tăng trưởng cao, đạt trên 3%/năm trong giai đoạn 2016-2018, cao hơn mức tăng bình quân cả nước (2,67%/năm).

Nông nghiệp ĐBSCL đóng góp 34,6% GDP ngành nông nghiệp cả nước và 33,5% GDP của vùng.

Tương tự, ngành kinh tế chủ lực thứ hai của Vùng là thủy sản cũng có sự phát triển nhanh nhờ tác động của khoa học, công nghệ; sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng nhanh từ 0,5 triệu tấn năm 1990 lên gần 3 triệu tấn năm 2020, đặc biệt là trong ngành hàng cá tra và tôm nước lợ.

“Nông nghiệp của ĐBSCL liên tục đóng góp vai trò khá quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của Vùng và cả nước, nhiều lần thực hiện được vai trò là trụ đỡ khi nền kinh tế gặp khó khăn”, đồng chí Lê Quang Mạnh nhấn mạnh.

Nhiều chính sách làm cho ĐBSCL bị rơi vào tình thế “tiến thoái, lưỡng nan”

Tuy nhiên, đồng chí Lê Quang Mạnh nhận định, trong bối cảnh hiện nay, thì nông nghiệp ĐBSCL đang đối mặt với rất nhiều thách thức, khó khăn, dẫn đến tỷ trọng đóng góp của ĐBSCL vào GDP cả nước ngày càng suy giảm, từ 27% (năm 1990) xuống còn 18% (năm 2020).

An ninh lương thực và thực phẩm đòi hỏi ngành nông nghiệp phát triển theo định hướng tăng năng suất và sản lượng; do vậy, chậm chuyển dịch sang các ngành có hiệu quả kinh tế cao hơn.

Bên cạnh các chính sách cho phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao, sản xuất theo hướng chất lượng và bền vững…, thì nhiều chính sách, nhất là chính sách cho người sản xuất còn nhiều bất cập, thậm chí làm cho ĐBSCL bị rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan.

Người sản xuất phải đối mặt với nhiều nỗi lo và sức ép lớn của thị trường, lợi nhuận thấp, đời sống chậm cải thiện… có phần tác động đến xu hướng di dân từ vùng nông thôn sang các vùng khác do thiếu việc làm và thu nhập thấp.

Bên cạnh các “bất cập” trên, đồng chí Lê Quang Mạnh cũng chỉ rõ, ĐBSCL lại đang rơi vào thách thức mới đó là bị tác động lớn của biến đổi khí hậu. ĐBSCL được xem là một trong ba đồng bằng của thế giới sẽ bị tác động lớn nhất của biến đổi khí hậu; dự báo lượng mưa ĐBSCL sẽ giảm 10 - 20% vào đầu mùa và tăng vào cuối mùa, nhiệt độ tăng khoảng 2oC vào những năm 2030 - 2040, nước biển dâng 0,33 - 1,0m vào năm 2050 - 2100.

“Như vậy, các lợi thế về điều kiện tự nhiên của Vùng sẽ thay đổi, ngành nông nghiệp được dự báo sẽ bị tác động nhiều nhất, hệ thống sản xuất và thế mạnh của ngành nông nghiệp phải được điều chỉnh tương thích với tác động của biến đổi khí hậu và kịp thời có giải pháp thích ứng để phát triển bền vững”, đồng chí Lê Quang Mạnh phát biểu.

Cần phải có sự đột phá về tư duy và thể chế, tăng cường liên kết trong và ngoài vùng

Dựa trên dự báo của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt 9,2 tỷ người vào năm 2050, nhu cầu về lương thực sẽ tăng gần gấp đôi so với thời điểm hiện nay, trong khi tác động của biến đổi khí hậu đang làm cho các điều kiện tự nhiên phù hợp với canh tác nông nghiệp ngày càng suy giảm, đồng chí Lê Quang Mạnh cho biết, ĐBSCL được dự đoán sẽ trở thành một trong những trung tâm sản xuất nông nghiệp quan trọng của châu Á để cung cấp nông sản cho thế giới và ngành thủy sản của vùng ĐBSCL đang có ưu thế cạnh tranh so với các khu vực khác.

Để hiện thực hóa được tương lai này, theo đồng chí Lê Quang Mạnh, cách tiếp cận là phải lấy bối cảnh thực tiễn của vùng và sự tiến bộ của khoa học, công nghệ để làm nền tảng cho sự phát triển, cần phải có sự đột phá về tư duy và thể chế, tăng cường liên kết trong và ngoài vùng và lấy mục tiêu phát triển vùng làm định hướng.

“Đặc biệt, với ngành nông nghiệp thì Nghị quyết 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu (Nghị quyết 120/NQ-CP) nêu rõ quan điểm phải thay đổi tư duy phát triển, chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp thuần túy, chủ yếu là sản xuất lúa sang tư duy phát triển kinh tế nông nghiệp đa dạng, đáp ứng nhu cầu của thị trường, chuyển từ phát triển theo số lượng sang chất lượng; xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển mạnh mẽ nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp sạch gắn với chuỗi giá trị và xây dựng thương hiệu; chú trọng phát triển công nghiệp chế biến và công nghiệp hỗ trợ gắn với phát triển kinh tế nông nghiệp’, Bí thư Thành ủy Cần Thơ dẫn giải.

Nhấn mạnh rằng, khát vọng về phát triển kinh tế của ĐBSCL đòi hỏi phải dựa trên tiềm năng lợi thế về nông nghiệp của Vùng để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, đồng chí Lê Quang Mạnh chỉ rõ, tăng trưởng trong tương lai sắp tới chỉ có thể dựa vào khoa học, công nghệ để tăng năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP).

Cần Thơ phải trở thành một trung tâm khoa học, công nghệ về nông nghiệp của quốc gia

Đồng chí Lê Quang Mạnh cho rằng, xu hướng công nghệ toàn cầu và bối cảnh kinh tế - xã hội của Vùng đang xuất hiện những cơ hội mới để khoa học, công nghệ về nông nghiệp tại Cần Thơ có thể vượt qua những nút thắt trước đây để bước sang một giai đoạn phát triển cao hơn.

Đó là: (i) Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, (ii) tiềm lực tăng trưởng kinh tế của cả nước (iii) làn sóng đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao của các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước, (iv) tiến độ sớm hoàn thành các công trình hạ tầng giao thông kết nối khung của vùng ĐBSCL.

Tranh thủ các cơ hội trên, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng với những tiềm năng, lợi thế và những kết quả đạt được bước đầu cũng như đứng trước yêu cầu phát triển của Vùng, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân thành phố Cần Thơ quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 05/8/2020 của Bộ Chính trị “Về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã định hướng phát triển cho Cần Thơ phải trở thành một trung tâm khoa học, công nghệ về nông nghiệp của quốc gia và khu vực. Vì sự phát triển của thành phố Cần Thơ không chỉ cho Cần Thơ mà còn phải “thể hiện vai trò trung tâm Vùng, dẫn dắt và có tác động lan tỏa tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương khác trong Vùng”.

Để làm được điều này, đồng chí Lê Quang Mạnh cho biết, thành phố Cần Thơ đề xuất các định hướng giải pháp phát triển khoa học, công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp.

Thứ nhất, về quan điểm phát triển, Thành phố phải tập trung chuyển đổi mạnh mẽ các hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo sang cơ chế thị trường với hệ thống các giải pháp thúc đẩy cả về phía cung - tức là tiềm lực nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ của Thành phố và phía cầu khoa học, công nghệ từ doanh nghiệp nông nghiệp và người nông dân, đồng bộ với các giải pháp liên kết cung - cầu, phát triển thị trường khoa học, công nghệ hoạt động hiệu quả.

Thứ hai, tập trung hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ. Trong một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo không phải là một mục đích tự thân.

“Thực chất, đó là phương thức mà thông qua đó, người dân và doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp giá thành và giành được lợi thế hơn so với đối thủ cạnh tranh của mình. Các doanh nghiệp trở thành doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ không phải vì họ muốn vậy mà là họ bắt buộc phải làm vậy, nếu không đối thủ của họ sẽ đưa ra các sản phẩm tốt hơn, giá thấp hơn và sẽ lấy đi thị phần, doanh thu và lợi nhuận”, Bí thư Thành ủy Cần Thơ khẳng định.

Như vậy, thể chế phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ cần được khẩn trương hoàn thiện theo hướng hỗ trợ một cách lành mạnh và hiệu quả nhất cho các cuộc cạnh tranh giữa các tổ chức nghiên cứu, các doanh nghiệp ứng dụng khoa học, công nghệ để xác định và từ đó tập trung thúc đẩy tổ chức, doanh nghiệp nào có thể thương mại hóa tri thức một cách tốt nhất.

Thứ ba, tăng cường đầu tư nâng cao tiềm lực khoa học, công nghệ của Thành phố (bên cung) với sự gia tăng vai trò của khu vực doanh nghiệp. Có chính sách ưu tiên đầu tư phát triển nguồn lực trình độ cao về nông nghiệp cho các viện nghiên cứu khoa học, trường đại học và các đơn vị khoa học của thành phố; tập trung đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển nông nghiệp, nhất là nông nghiệp công nghệ cao trên cơ sở đầu tư theo Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ cho ĐBSCL, đặc biệt cho các trường đại học, viện nghiên cứu có thế mạnh về nông nghiệp, công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản, chế biến; thu hút, kêu gọi các doanh nghiệp lớn, các tổ chức quốc tế đầu tư hay cùng đầu tư, tài trợ xây dựng các viện, trung tâm nghiên cứu nông nghiệp tầm quốc gia, khu vực tại thành phố Cần Thơ.

Thứ tư, thúc đẩy bên cầu đối với khoa học, công nghệ, coi doanh nghiệp và người nông dân là trung tâm của các hoạt động khoa học, công nghệ; bao gồm các biện pháp khuyến khích người nông dân học tập và trở lên năng động hơn trong việc hấp thụ các sản phẩm khoa học, công nghệ, khuyến khích nông dân tiếp cận khoa học, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, sáng chế phát minh, áp dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp; các chương trình xúc tiến, thu hút doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào các lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao của ĐBSCL, các chính sách hỗ trợ tín dụng cho đổi mới công nghệ trong sản xuất nông nghiệp.

Tăng mức hạn điền để người nông dân và doanh nghiệp nông nghiệp có điều kiện cơ giới hóa, ứng dụng nhiều hơn khoa học, công nghệ” trong sản xuất nông nghiệp.

“Thành phố chủ động đặt hàng các công trình nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp, tạo đột phá cho phát triển thành phố, làm động lực phát triển cho cả vùng ĐBSCL”, đồng chí Lê Quang Mạnh cho biết.

Thứ năm, đẩy mạnh các giải pháp kết nối cung cầu thị trường khoa học, công nghệ thông qua các chương trình phát triển các sàn giao dịch, các tổ chức trung gian, như: Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng Cần Thơ… nhằm kết nối sản phẩm cung của các viện nghiên cứu với cầu của doanh nghiệp, của người nông dân ĐBSCL.

Tăng cường tỷ lệ ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất, phát triển thêm các Vườn ươm Công nghệ, các khu nông nghiệp công nghệ cao, khu công nghệ thông tin… để rút ngắn khoảng cách từ lý thuyết đến thực tiễn.

“Mở rộng các hoạt động hợp tác, kết nối, liên kết chặt chẽ, hiệu quả giữa thành phố Cần Thơ với các địa phương trong Vùng. Phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu hệ sinh thái khoa học, công nghệ bằng các chương trình, giải pháp bền vững, bài bản không chỉ trong phạm vi không gian của thành phố Cần Thơ mà là một hệ sinh thái khoa học, công nghệ chung của cả Vùng ĐBSCL”, Bí thư Thành ủy Cần Thơ cho hay./.