Thừa Thiên Huế: Vững bước phát triển trên con đường hội nhập
Trong những năm qua, mặc dù có những thuận lợi, khó khăn, thách thức đan xen, song về tổng thể, bức tranh kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế đã có những thay đổi tiến bộ và đạt nhiều thành tựu to lớn.
Duy trì ổn định kinh tế - xã hội
Mặc dù kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn, nhưng Thừa Thiên Huế vẫn duy trì được mức tăng trưởng cao và ổn định. Giai đoạn 2010-2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 9,1%/năm; trong đó, dịch vụ tăng 10,8%/năm; công nghiệp - xây dựng tăng 8,9%/năm; nông nghiệp tăng 2,5%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực và phù hợp với những lợi thế so sánh về phát triển du lịch, dịch vụ y tế, giáo dục... Khu vực dịch vụ tăng tỷ trọng trong tổng sản phẩm từ 55,3% (năm 2010) lên 55,9% (năm 2015); công nghiệp - xây dựng tăng tương ứng từ 28,9% lên 33,7%; khu vực nông nghiệp giảm từ 15,9% xuống 10,4%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 68,1 nghìn tỷ đồng, tăng bình quân 12%/năm. Thu ngân sách nhà nước bình quân đạt gần 5.000 tỷ đồng/năm, tăng gần gấp đôi bình quân giai đoạn 2006-2010.
Nhờ liên tục tập trung nguồn lực thực hiện Chương trình trọng điểm chỉnh trang đô thị, xây dựng nếp sống văn minh đô thị và nông thôn đồng bộ, quyết liệt cả phần thể chế và đầu tư nên bộ mặt các đô thị đã được cải thiện đáng kể, tạo được dấu ấn rõ nét; quy mô đô thị được mở rộng. Thành phố Huế được tập trung đầu tư cải tạo, nâng cấp, chỉnh trang hệ thống giao thông nội thị, vỉa hè, thoát nước, điện chiếu sáng, cây xanh; tổ chức di dời, giải tỏa, tái định cư các hộ dân sống trong vùng bảo vệ di tích; chỉnh trang, nạo vét một số sông chính, như: Ngự Hà, Đông Ba, An Cựu, hồ Học Hải...; hoàn thành cầu Dã Viên, hệ thống cầu qua sông An Cựu, sông Đông Ba... Công tác xây dựng và chỉnh trang thị xã Hương Thủy, Hương Trà, thị trấn Phú Đa, Thuận An, thị trấn Sịa và các đô thị khác được đẩy nhanh. Nhiều công trình kiến trúc, công cộng được ưu tiên đầu tư; hạ tầng giao thông, cấp nước, thoát nước, điện chiếu sáng... được đầu tư bảo đảm phát triển chức năng đô thị. Hệ thống giao thông đối ngoại được cải thiện đáng kể; nâng cấp cảng Hàng không Quốc tế Phú Bài, mở rộng Quốc lộ 1A và xây dựng hai hầm đường bộ Phước Tượng và Phú Gia. Hệ thống giao thông kết nối các đô thị được tập trung đầu tư, hoàn thành một số tuyến giao thông quan trọng phá thế chia cắt ở vùng đầm phá, giải quyết cơ bản tình trạng chia cắt cục bộ trong mùa mưa lũ. Hạ tầng cấp nước sinh hoạt, cấp điện, xử lý chất thải được chú trọng đầu tư và từng bước hoàn thiện đáp ứng nhu cầu nhân dân.
Trên hành trình tìm đến sự phát triển kinh tế bền vững, tỉnh Thừa Thiên Huế đã tìm một hướng đi mới, lấy ngành dịch vụ làm chủ đạo. Dịch vụ được định hướng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Du lịch phát triển vững mạnh và ổn định, doanh thu du lịch tăng bình quân 19%/năm, tổng lượt khách lưu trú tăng bình quân 8,2%/năm; hàng năm đón hơn 40 chuyến tàu du lịch biển, trong đó có nhiều chuyến tàu du lịch cỡ lớn đến 5.000 du khách. Nhiều hoạt động văn hóa - du lịch có quy mô và chất lượng cao được duy trì, tiêu biểu các kỳ Festival Huế đã trở thành sự kiện nổi bật, góp phần nâng cao vị thế của một trung tâm văn hóa - du lịch. Kết cấu hạ tầng phục vụ du lịch phát triển nhanh. Nhiều khu du lịch mới đẳng cấp quốc tế đã đi vào hoạt động, như: Khu du lịch nghỉ dưỡng Laguna của Tập đoàn Banyan Tree, Khu du lịch Tam Giang (Phú Vang), Khu du lịch sinh thái Vedana Lagoon (Phú Lộc)...
Hoạt động thương mại tiếp tục phát triển; tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng bình quân 18%/năm; kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 20%/năm. Kết cấu hạ tầng thương mại phát triển; mạng lưới chợ - siêu thị - trung tâm thương mại khá đa dạng về loại hình và cấp độ, cơ bản đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tăng cao của nhân dân và khách du lịch. Dịch vụ bưu chính viễn thông phát triển khá. Dịch vụ tài chính ngân hàng được củng cố. Dịch vụ vận tải duy trì mức tăng khá; doanh thu vận tải bình quân tăng 19%. Dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ phát triển theo hướng chuyên sâu và nâng cao chất lượng. Sự chuyển dịch trong nội bộ ngành thương mại - dịch vụ đang tạo ra giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ, làm tăng tỷ trọng đóng góp của ngành trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Thừa Thiên Huế.
Trong lĩnh vực công nghiệp, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng một số sản phẩm tiếp tục tăng khá, như: thủy hải sản xuất khẩu tăng 47% (giai đoạn 2005-2010 tăng 7,9%), dăm gỗ tăng 9%, men Frit tăng 16%; các sản phẩm chủ lực của Tỉnh như: bia, xi măng phục hồi đà tăng trưởng; dệt sợi dự ước sản lượng 60.000 tấn sợi/năm, tăng 17%/năm; sản phẩm may mặc đạt 250 triệu sản phẩm/năm, tăng 11,7%/năm; giá trị sản xuất ngành dệt may chiếm trên 50% giá trị sản xuất ngành công nghiệp. Các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, làng nghề được quy hoạch và đầu tư hạ tầng kỹ thuật cơ bản, đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư. Đến nay, Thừa Thiên Huế đã thành lập 6 KCN với tổng diện tích gần 2.400 ha, gồm các KCN: Phong Điền, Phú Bài, Tứ Hạ, Quảng Vinh, Phú Đa và La Sơn; trong đó, 4 KCN đã có nhà đầu tư hạ tầng với diện tích thuê đất là 854 ha. Các KCN đã thu hút 96 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký 22.000 tỷ đồng, gấp 1,9 lần về số dự án và 5,5 lần về số vốn đăng ký so thời kỳ trước; vốn thực hiện đạt 10.454 tỷ đồng, bằng 57,4% so vốn đăng ký. Giá trị sản xuất của các doanh nghiệp trong KCN chiếm 45% tổng giá trị sản xuất công nghiệp và đóng góp 67% tổng giá trị xuất khẩu của toàn Tỉnh. Giải quyết việc làm cho khoảng 16 nghìn lao động.
Về lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, Tỉnh đã ổn định diện tích trồng lúa trên 50.000 ha, trong đó có 10.000 ha lúa chất lượng cao; năng suất lúa lần đầu tiên chạm mốc 60 tạ/ha (năm 2014). Diện tích nuôi trồng thuỷ sản ổn định ở mức 6.000 ha; diện tích đất có rừng 297,5 nghìn ha, độ che phủ rừng đạt 56,7%.
Công tác xây dựng, phát triển nông thôn mới đã có nhiều chuyển biến. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn chuyển dịch nhanh theo hướng phát triển ngành nghề phi nông nghiệp; tỷ trọng lao động trong nông nghiệp giảm từ 35,5% (năm 2010) xuống còn 31,5% (năm 2014). Nhiều chương trình, dự án, công trình hạ tầng được đầu tư theo quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Đến năm 2014, toàn Tỉnh có 8 xã đạt chuẩn nông thôn mới; phấn đấu đến hết năm 2015 toàn Tỉnh có 20% xã (tương đương khoảng 19-20 xã) đạt chuẩn nông thôn mới.
Lĩnh vực văn hóa đạt được những thành tựu quan trọng. Tỉnh đã duy trì và phát huy các lễ hội dân gian, lễ hội truyền thống và hiện đại; phục dựng các lễ hội Cung đình Huế, phát huy các lễ hội văn hóa tín ngưỡng, xây dựng nhiều chương trình nghệ thuật mới để nâng cao chất lượng các kỳ Festival Huế. Thành công của tám kỳ Festival Huế và các Festival Nghề truyền thống đã khẳng định thương hiệu thành phố Huế - thành phố Festival, khẳng định vị thế của văn hóa, du lịch Huế với bạn bè trong nước và quốc tế. Huế vinh dự là thành phố đầu tiên của Việt Nam được trao danh hiệu "Thành phố Văn hóa của ASEAN", "Giải thưởng ASEAN về thành phố bền vững môi trường".
Lĩnh vực y tế tiếp tục khẳng định vị thế là một trung tâm y tế chuyên sâu, kỹ thuật cao, hiện đại của cả nước. Công tác y tế - chăm sóc sức khỏe đáp ứng tốt nhu cầu của nhân dân. Bệnh viện Trung ương Huế đã thực hiện trên 3.500 loại kỹ thuật y tế với nhiều kỹ thuật chẩn đoán và điều trị chuyên sâu, tiên tiến trên thế giới được ứng dụng và phát triển trong lĩnh vực tim mạch, ghép tạng, điều trị ung thư vú, ung thư buồng trứng... Hệ thống y tế được đầu tư cơ bản các bệnh viện tuyến tỉnh, huyện và trạm y tế xã. Đến cuối 2014, bình quân 1 vạn dân có 43 giường bệnh, 16,3 bác sỹ; tỷ lệ xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế là 81%. Công tác phòng, chống, giám sát dịch, kiểm dịch y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm và các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế triển khai có hiệu quả.
Lĩnh vực giáo dục - đào tạo phát triển tương xứng là trung tâm giáo dục - đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao. Đội ngũ giáo viên có chất lượng, đồng bộ với trên 99,8% giáo viên đạt chuẩn. Cơ sở vật chất trường học được cải thiện cơ bản. Tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp, đỗ đại học; tỷ lệ học sinh khá giỏi, số giải học sinh giỏi Quốc gia đạt được tăng cao. Hệ thống đào tạo nghề chuyển biến theo hướng giảm về số lượng, nhưng tăng về quy mô và trình độ đào tạo. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng từ 44% (năm 2011) lên 54% (năm 2014) và ước đạt 56% vào năm 2015.
Công tác an sinh xã hội và phúc lợi xã hội được bảo đảm. Công tác hỗ trợ giảm nghèo được chú trọng; cuối năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 5,3%, toàn Tỉnh chỉ còn 01 xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 25%; thu nhập thực tế bình quân hộ gia đình đạt 1.655 nghìn đồng/người/tháng, tăng 17,8%/năm; trong đó, khu vực thành thị tăng 25%/năm, khu vực nông thôn tăng 13,6%/năm. Hàng năm đã tạo việc làm mới cho trên 16 nghìn lao động.
Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ nêu trên, kinh tế Thừa Thiên Huế vẫn còn một số hạn chế, khó khăn:
Tăng trưởng kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào phát triển theo chiều rộng; năng suất lao động xã hội còn thấp. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân ước đạt 6,8%/năm, thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế (bình quân 9,1%/năm). Sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; thu ngân sách và thu nhập (tính theo GRDP) bình quân đầu người thấp hơn mức bình quân chung của cả nước.
Khu vực dịch vụ có tiềm năng lớn, nhưng chủ yếu vẫn tập trung ở việc khai thác những dịch vụ thông thường; các phân ngành dịch vụ quan trọng, như: tài chính, viễn thông, công nghệ thông tin, giáo dục... chưa đủ mạnh. Các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, như: nghiên cứu khoa học, tư vấn, tiếp thị, nghiên cứu thị trường... phát triển chậm. Dịch vụ thương mại chủ yếu mang tính chất buôn bán lẻ. Du lịch là thế mạnh, song mức tăng trưởng về lượt khách và doanh thu chưa đạt mục tiêu đề ra...
Sản xuất công nghiệp đạt tốc độ phát triển thấp hơn so với thời kỳ trước bởi hai nguyên nhân cơ bản: một là do quy mô kinh tế ngày càng lớn, hai là do suy thoái kinh tế chung, ảnh hưởng hoạt động đầu tư sản xuất của doanh nghiệp. Công nghiệp của các địa phương vẫn chưa tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và giải quyết việc làm ở khu vực nông thôn (72% doanh nghiệp đang tập trung ở thành phố Huế).
Trong sản xuất nông nghiệp, việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vẫn còn hạn chế. Các phương thức canh tác tiên tiến chậm được áp dụng trên diện rộng. Chưa kết nối giữa các khâu sản xuất nông nghiệp - chế biến công nghiệp và tiêu thụ sản phẩm nên giá trị sản phẩm không cao.
Quá trình triển khai Chương trình xây dựng nông thôn mới gặp nhiều khó khăn. Nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, ảnh hưởng đến tiến độ hoàn thành các tiêu chí, nhất là các tiêu chí liên quan đến đầu tư hạ tầng. Số mô hình ứng dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến, có hiệu quả cao chưa nhiều; các vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh quy mô lớn còn ít và việc nhân rộng gặp khó khăn.
Chất lượng phát triển văn hóa và xây dựng nếp sống văn minh còn hạn chế. Hệ thống y tế cơ sở xã, phường đang được đầu tư nâng cấp, song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế; cán bộ y tế, trang thiết bị y tế, thuốc chữa bệnh ở tuyến cơ sở vẫn còn thiếu. Các chương trình dân số, chăm sóc sức khỏe cộng đồng hiệu quả chưa cao, tỷ lệ sinh con thứ ba vẫn cao theo từng năm. Kết quả giảm nghèo chưa thật vững chắc, số hộ cận nghèo còn lớn; nhiều hộ có nguy cơ tái nghèo, nhất là vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng trực tiếp của thiên tai; khoảng cách chênh lệch giàu nghèo có xu hướng tăng.
Chưa gắn kết được nghiên cứu khoa học, đào tạo với sản xuất, kinh doanh; chưa khai thác hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao trong các cơ sở giáo dục trên địa bàn Tỉnh vào phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Thị trường khoa học công nghệ chậm được hình thành, hiệu quả ứng dụng các công trình nghiên cứu khoa học thấp; chưa có các sản phẩm khoa học công nghệ có uy tín.
Cần những giải pháp đồng bộ
Với mục tiêu phấn đấu đến 2020, Thừa Thiên Huế xứng tầm là một trong những trung tâm kinh tế, văn hoá – du lịch, khoa học - công nghệ, y tế, đào tạo lớn của cả nước và khu vực, Tỉnh cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, Tập trung đầu tư xây dựng, tạo bước đột phá để hoàn chỉnh hệ thống kết cấu hạ tầng, xây dựng Thừa Thiên Huế xứng tầm là đô thị cấp quốc gia, hướng đến mô hình đô thị“di sản, văn hóa, sinh thái, cảnh quan, thân thiện với môi trường”; tiếp tục xây dựng Tỉnh trở thành một trong những trung tâm văn hóa - du lịch, y tế, giáo dục và khoa học công nghệ của cả nước và khu vực. Cùng các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung làm tốt vai trò thúc đẩy phát triển trong vùng. Trong đó, phát triển nhanh và nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh các dịch vụ có thế mạnh, như: du lịch, y tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo, tài chính - ngân hàng... Tạo bước đột phá phát triển du lịch. Mở rộng hợp tác, liên kết mở các đường bay trong nước và quốc tế để thu hút du khách. Đẩy mạnh liên doanh, liên kết trong phát triển du lịch để tạo lập, mở rộng tour, nối tuyến, thu hút khách, phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Chương trình nghệ thuật chào mừng khai hội văn hóa, du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2015
Thứ hai, phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại, thân thiện với môi trường, gắn với quá trình đô thị hóa, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tăng cường liên kết, hợp tác và kêu gọi đầu tư phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao để tạo bước đột phá. Khuyến khích, vận động đầu tư vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến tinh, công nghiệp phụ trợ và các lĩnh vực công nghệ y học cao cấp, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo, vật liệu mới, các ngành có lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ “sạch”, hiện đại. Phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn.
Thứ ba, phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới. Khai thác tiềm năng, lợi thế của nông nghiệp (biển, đầm phá, gò đồi, miền núi) để nâng cao giá trị nông sản, hải sản, lâm sản. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Tập trung nâng cao trình độ thâm canh, ứng dụng công nghệ sinh học, đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, huy động các nguồn lực để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; chú trọng thu hút doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn nông thôn. Tiếp tục xây dựng 2 huyện Quảng Điền,
Thứ tư, hoàn thành đề án sắp xếp chuyển đổi, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước gắn với nâng cao hiệu quả hoạt động sau sắp xếp, cổ phần hoá. Phát triển mạnh kinh tế tư nhân để thực sự trở thành động lực quan trọng của kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân; sử dụng có hiệu quả Quỹ hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát huy tốt vai trò của Nhà nước trong thực hiện chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp; nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong Tỉnh. Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế tập thể với các hình thức phù hợp.
Thừa Thiên Huế tập trung quán triệt mạnh việc gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội, chủ động phòng tránh và ứng phó với biến đổi khí hậu; giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống người dân cả về vật chất và tinh thần./.
Bình luận