TS. Phùng Danh Thắng

Khoa Quốc tế Pháp ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội

Emai: danhthang.phung@vnu.edu.vn

Tóm tắt

Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đề xuất các nhân tố tác động đến Khởi nghiệp xanh của doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh nước ta đang tham gia ngày càng sâu rộng vào các cam kết quốc tế về chống biến đổi khí hậu và mục tiêu chuyển đổi kép của nền kinh tế. Trên cơ sở lý thuyết liên quan và tổng quan các nghiên cứu trước đó, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến Khởi nghiệp xanh của doanh nhân Việt Nam, gồm 3 nhân tố là: Nhân tố cá nhân; Nhân tố tổ chức; Nhân tố bên ngoài.

Từ khóa: nhân tố tác động, khởi nghiệp xanh, mô hình, Việt Nam

Summary

The study's objective is to propose factors affecting the Green Entrepreneurship of Vietnamese entrepreneurs in the context of the country's increasingly deep participation in international commitments to climate change response and the dual transformation goal of the economy. Based on related theories and an overview of previous studies, the author proposes a research model of factors affecting the Green Entrepreneurship of Vietnamese entrepreneurs, including 3 factors: Personal factors; Organizational factors; and External factors.

Keywords: affecting factors, green entrepreneurship, model, Vietnam

ĐẶT VẤN ĐỀ

Khởi nghiệp xanh là hoạt động kinh doanh hướng tới lợi ích kinh tế đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Theo Schaltegger (2011), khởi nghiệp xanh thuộc một dạng khởi nghiệp bền vững, tập trung vào đổi mới sáng tạo để đạt được các mục tiêu môi trường và xã hội, phù hợp với nền kinh tế xanh. Đây là mô hình khởi nghiệp tập trung vào việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ hoặc quy trình kinh doanh thân thiện với môi trường, góp phần vào sự phát triển bền vững. Mục tiêu chính của khởi nghiệp xanh là không chỉ tạo ra lợi nhuận, mà còn giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Những ý nghĩa của khởi nghiệp xanh đối với nền kinh tế quốc gia được công nhận cụ thể, như: bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên, thúc đẩy sự phát triển bền vững, góp phần vào quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ mô hình kinh tế tuyến tính sang nền kinh tế tuần hoàn. Từ đó, tạo ra việc làm mới và thúc đẩy sáng tạo, góp phần nâng cao nhận thức và thay đổi thói quen tiêu dùng, tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp và tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp góp phần tích cực vào công cuộc chống biến đổi khí hậu toàn cầu. Vì vậy, việc chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng tới khởi nghiệp xanh sẽ giúp thúc đẩy hành vi này.

CÁC LÝ THUYẾT LIÊN QUAN

Lý thuyết Hành vi có kế hoạch của Ajzen (1991)

Mô hình lý thuyết Hành vi có kế hoạch (TPB) của Ajzen (1991) là một khung lý thuyết phổ biến được sử dụng để nghiên cứu ý định khởi nghiệp nói chung, bao gồm khởi nghiệp xanh. Theo TPB, ý định khởi nghiệp xanh bị ảnh hưởng bởi: (1) Thái độ đối với hành vi: Sự nhận thức tích cực hoặc tiêu cực về việc khởi nghiệp xanh; (2) Chuẩn mực chủ quan: Áp lực xã hội từ gia đình, bạn bè, hoặc cộng đồng về việc tham gia khởi nghiệp xanh; (3) Kiểm soát hành vi nhận thức: Cảm nhận về khả năng và nguồn lực cá nhân để thực hiện khởi nghiệp xanh.

Các nghiên cứu áp dụng TPB trên thực tiễn thường bổ sung các nhân tố khác như: Động lực bảo vệ môi trường (Environmental Awareness); Giá trị bền vững (Sustainability Values). Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu về ý định khởi nghiệp xanh lựa chọn chủ yếu việc kiểm định lại các mô hình lựa chọn chủ yếu dựa trên mô hình nền tảng của mô hình Shapero và Sokol (1982) cũng như kết hợp với mô hình TPB) của Ajzen (1991) là sự khởi đầu cho các nghiên cứu của Majid và cộng sự (2017). Nghiên cứu này kết hợp hai mô hình nghiên cứu căn bản để thử nghiệm mô hình mới đánh giá ý định khởi nghiệp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hướng tới khởi nghiệp xanh (khởi nghiệp bền vững) ở Malaysia. Do đó, trên cơ sở thuyết TPB của Ajzen (1991) và Lý thuyết sự kiện khởi nghiệp (SEE) của Shapero và Sokol (1982), nghiên cứu này đã kế thừa và bổ sung thêm một số điểm sau: Thứ nhất, nghiên cứu xem xét đối tượng rộng hơn sinh viên (đó là thanh niên trong độ tuổi 18-35), trong khi các nghiên cứu trước chủ yếu đề cập đến là sinh viên; Thứ hai, nghiên cứu bổ sung thêm các nhân tố “đặc điểm cá nhân” để xét xem tác động trực tiếp của nhân tố liên quan đến đặc điểm cá nhân để ảnh hưởng tới việc hình thành ý định khởi nghiệp xanh.

Mô hình Ý định khởi nghiệp của Krueger (1993)

Trong mô hình này, Krueger (1993) đã tích hợp thêm một biến giải thích: xu hướng hành động dựa trên mô hình của Shapero và Solko (1982). Biến này tương tự như đặc điểm tính cách liên quan đến khả năng của cá nhân trong việc hiện thực hóa ý định có nghĩa là cần thiết để đạt được kết thúc của nó. Ban đầu, Shapero (1975) nhấn mạnh đến tất cả về thực tế là doanh nhân có một mong muốn lớn để kiểm soát môi trường của mình. Ngoài ra, xu hướng hành động phản ánh thành phần tâm lý của các ý định, nó được cho là có tác dụng kiểm duyệt đối với các mối quan hệ giữa tính mong muốn và tính khả thi và ý định (Krueger, 1993).

Mô hình xác định ý định khởi nghiệp của Davidsson (1995)

Davidsson (1995) đưa ra một mô hình kinh tế tâm lý về các biến số hoạt động theo ý định của các cá nhân tạo ra các doanh nghiệp mới. Tác giả kết hợp một số phần được kế thừa từ các mô hình trước đó, đồng thời tinh chỉnh các phân tích của mình theo hướng điều chỉnh cụ thể về nghiên cứu ý định khởi nghiệp. Trong nghiên cứu của mình, Davidsson đã tiến hành các nghiên cứu định lượng với một mẫu lớn gồm 1.313 người Thụy Điển ở độ tuổi 35 đến 40. Sử dụng các bài kiểm tra thống kê, nghiên cứu của ông nhằm tìm kiếm kết quả của một chuỗi các mối quan hệ nhân quả có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến ý định kinh doanh. Hai biến được chọn là có ảnh hưởng trực tiếp, một mặt là tình hình việc làm tại thời điểm khảo sát (công việc lâu dài, công việc tạm thời, thất nghiệp và sinh viên) và mặt khác.

Mô hình ý định khởi nghiệp của Autio và cộng sự (1997)

Nghiên cứu của Autio và đồng nghiệp xây dựng theo hướng của Davidsson bằng nguồn dữ liệu các sinh viên khoa học kỹ thuật từ 4 quốc gia (Phần Lan, Thụy Điển, Mỹ và Châu Á). Trong nghiên cứu của mình, Autio và cộng sự (1997) đã xác nhận rằng, niềm tin và sở thích nghề nghiệp của sinh viên là những nhân tố quan trọng nhất trong việc hình thành ý định khởi nghiệp. Mặt khác, niềm tin hoặc ý định bị ảnh hưởng bởi thái độ chung cũng như môi trường đại học. So với mô hình Davidsson (1995), thái độ theo Autio và cộng sự (1997) bao gồm 4 khuynh hướng tâm lý gồm: Nhu cầu hoàn thành; Tự chủ; Thay đổi và Động lực tài chính. Dựa trên mô hình của Davidsson (1995), Autio và cộng sự (1997) đã giới thiệu các biến số hình ảnh/tiền thưởng của người dùng biểu thị hình ảnh của tinh thần khởi nghiệp và phần thưởng mà sinh viên mong đợi bằng cách chọn một doanh nghiệp khởi nghiệp. Hình ảnh này đề cập đến thái độ liên quan đến TPB của Ajzen (1991) và nhận thức về tính mong muốn của Shapero và Sokol (1982). Hình ảnh bị ảnh hưởng bởi một số nhân tố như trình độ học vấn, kinh nghiệm làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ KHỞI NGHIỆP XANH

Để thúc đẩy hình thành và hiện thực hoá ý định khởi nghiệp xanh, quá trình đó, các doanh nhân chịu tác động rất nhiều nhân tố thúc đẩy, như: nhân tố cá nhân, xã hội, thể chế chính sách, công nghệ…

Nghiên cứu của Ahmad và cộng sự (2017) cho thấy, nhờ nhận thức cao về môi trường, thế hệ Y có ý định mạnh mẽ trong việc khởi nghiệp xanh. Trong khi Nikolaou và cộng sự (2018) đã sử dụng cách tiếp cận dựa trên nguồn lực và thể chế để phân loại doanh nhân xanh, niềm tin và giá trị cá nhân có tác động mạnh đến việc hình thành ý định khởi nghiệp xanh, nhấn mạnh rằng những cá nhân có giá trị và niềm tin mạnh mẽ về bảo vệ môi trường có khả năng trở thành doanh nhân xanh cao hơn.

Bên cạnh đó, nghiên cứu của Yi (2020) lại đề cao động lực và sự tự tin, theo đó, Yi chỉ ra động lực khởi nghiệp xanh có thể được nâng cao thông qua việc hỗ trợ từ các chương trình giáo dục khởi nghiệp và môi trường thể chế, giúp doanh nhân tự tin hơn trong việc hiện thực hóa ý tưởng.

Ngay từ những năm cuối thế kỷ 20, Shapero và Sokol (1982) đã nhấn mạnh vai trò của các nhân tố xã hội, bao gồm: gia đình, bạn bè và cộng đồng... trong việc định hình ý định khởi nghiệp. Trong bối cảnh khởi nghiệp xanh, điều này càng trở nên quan trọng khi cộng đồng ngày càng chú trọng đến bảo vệ môi trường. Trong khi đó, Giudici và cộng sự (2019) đánh giá vai trò của văn hoá địa phương có tác động đế khởi nghiệp xanh. Giudici và cộng sự nhấn mạnh rằng, tại các khu vực có nhận thức cao về môi trường, khả năng hình thành các startup công nghệ xanh cao hơn, nhờ vào sự hỗ trợ của văn hóa địa phương. Autio và cộng sự (2001) cũng phân tích sự khác biệt về ý định khởi nghiệp xanh giữa các khu vực, chỉ ra rằng các nền văn hóa chú trọng giáo dục và sáng tạo có khả năng thúc đẩy các doanh nhân xanh mạnh mẽ hơn

Trong khi đó, Santoalha và Boschma (2020) nhấn mạnh rằng, hỗ trợ chính sách và thể chế có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy công nghệ xanh và khởi nghiệp xanh ở các khu vực châu Âu. Trong khi đó, nghiên cứu của Yi (2020) cho thấy, động lực khởi nghiệp xanh có thể được nâng cao thông qua việc hỗ trợ từ các chương trình giáo dục khởi nghiệp và môi trường thể chế, giúp doanh nhân tự tin hơn trong việc hiện thực hóa ý tưởng khởi nghiệp xanh. Nghiên cứu Yi (2020) khẳng định rằng, các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp trong trường đại học và sự hỗ trợ từ các tổ chức bên ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy ý định và hành vi khởi nghiệp xanh của sinh viên.

Nguyễn Thị Thu Hoài (2020) phân tích xu hướng phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam, trong đó nhấn mạnh vai trò của Chính phủ trong việc thúc đẩy các sáng kiến khởi nghiệp xanh. Trần Thị Hương (2018) cũng chỉ ra rằng, biến đổi khí hậu toàn cầu đã thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam chuyển sang mô hình kinh doanh bền vững hơn.

Nhìn chung, các nghiên cứu cơ bản có sự khác nhau về lựa chọn nhóm các nhân tố tác động bên ngoài và bên trong, được sử dụng các mô hình nghiên cứu khác nhau và phương pháp nghiên cứu khác nhau chủ yếu với các đối tượng thu thập dữ liệu khác biệt.

ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU

Dựa trên khám phá quá trình khởi sự kinh doanh xanh tại Việt Nam và tổng quan nghiên cứu cũng như các lý thuyết nền tảng, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến Khởi nghiệp xanh (Hình) bao gồm 3 nhóm biến độc lập sau:

Nhân tố cá nhân: bao gồm Kiến thức và kỹ năng về môi trường và Động lực và giá trị cá nhân.

Nhân tố tổ chức: bao gồm: Văn hóa doanh nghiệp hướng tới bền vững và Đầu tư vào công nghệ xanh

Nhân tố bên ngoài: bao gồm khả năng khởi nghiệp xanh Chính sách hỗ trợ từ chính phủ; Áp lực từ khách hàng và thị trường; Tác động của xu hướng toàn cầu hóa xanh.

Từ đó, mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động tới Khởi nghiệp xanh (YYY) được biểu diễn như sau:

Y=β0+β1X1+β2X2+β3X3+β4X4+β5X5+β6X6+ϵ

Trong đó:

Y: Khởi nghiệp xanh (biến phụ thuộc).

X1​: Kiến thức về môi trường (nhân tố cá nhân).

X2​: Động lực cá nhân (nhân tố cá nhân).

X3: Văn hóa doanh nghiệp (nhân tố tổ chức).

X4​: Đầu tư công nghệ xanh (nhân tố tổ chức).

X5​: Chính sách hỗ trợ (nhân tố bên ngoài).

X6​: Áp lực thị trường (nhân tố bên ngoài).

β0​: Hệ số chặn;β1​-β6​: Hệ số hồi quy của các biến độc lập; ϵ: Sai số.

Hình: Mô hình nghiên cứu đề xuất

Các nhân tố tác động tới khởi nghiệp xanh ở Việt Nam hiện nay*
Nguồn: Tác giả xây dựng

Các giả thuyết nghiên cứu được đề xuất như sau:

H1: Kiến thức về môi trường có tác động tích cực tới Khởi nghiệp xanh.

H2: Động lực cá nhân có tác động tích cực tới Khởi nghiệp xanh.

H3: Văn hóa doanh nghiệp có tác động tích cực tới Khởi nghiệp xanh.

H4: Đầu tư công nghệ xanh có tác động tích cực tới Khởi nghiệp xanh.

H5: Chính sách hỗ trợ có tác động tích cực tới Khởi nghiệp xanh.

H6: Áp lực thị trường có tác động tích cực tới Khởi nghiệp xanh.

KẾT LUẬN

Bài viết đã xây dựng mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động tới Khởi nghiệp xanh, gồm 3 nhóm nhân tố: Nhân tố cá nhân (bao gồm Kiến thức và kỹ năng về môi trường và Động lực và giá trị cá nhân); Nhân tố tổ chức (bao gồm: Văn hóa doanh nghiệp hướng tới bền vững và Đầu tư vào công nghệ xanh); Nhân tố bên ngoài (bao gồm khả năng khởi nghiệp xanh Chính sách hỗ trợ từ chính phủ; Áp lực từ khách hàng và thị trường; Tác động của xu hướng toàn cầu hóa xanh).

Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm ra các nhân tố tác động đến khởi nghiệp xanh phù hợp với điều kiện Việt Nam, trong bối cảnh Việt Nam là một trong những quốc gia đang phát triển chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nhiều nhất thế giới và đang tham gia tích cực vào các cam kết quốc tế về chống biến đổi khí hậu. Nghiên cứu về các nhân tố tác động đến khởi nghiệp xanh là nghiên cứu có nội dung mới ở Việt Nam. Đây là hướng đi cần được nghiên cứu và khai thác nằm trong chủ đề nghiên cứu phát triển kinh tế xanh bền vững được đề ra trong định hướng chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam đến 2050./.

Tài liệu tham khảo

1. Ahmad, N. H., Halim, H. A., Ramayah, T., Rahman, S. A. (2017), Green entrepreneurship inclination among Generation Y: The road towards a green economy, retrieved from https://www.semanticscholar.org/paper/Green-entrepreneurship-inclination-among-Generation-Ahmad-Halim/c27b577e8d789325feaf645ed4d7d6e246db7c82.

2. Ajzen, I. (1991), The theory of planned behavior, Organizational behavior and human decision processes, 50(2), 179–211.

3. Autio, E., H. Keeley, R., Klofsten, M., GC Parker, G., Hay, M. (2001), Entrepreneurial intent among students in Scandinavia and in the USA, Enterprise and Innovation Management Studies, 2(2), 145–160.

4. Autio, E., Keeley, R. H., Klofsten, M., Ulfstedt, T. (1997), Entrepreneurial Intent Among Students: Testing an Intent Model in Asia, Scandinavia and USA (tr 133–147), Babson College, retrieved from http://liu.diva-portal.org/smash/record.jsf?pid=diva2%3A609927&dswid=-2432.

5. Davidson, S., Ouellet, M. A., Robichaud, M. J. (2007), A Preliminary Rural Livelihood Assessment, Community dynamics and income diversification strategies in La Zahina, Panama.

6. Davidsson, P. (1995), Determinants of entrepreneurial intentions, retrieved from http://eprints.qut.edu.au/2076/.

7. Giudici, G., Guerini, M., Rossi-Lamastra, C. (2019),s The creation of cleantech startups at the local level: The role of knowledge availability and environmental awareness, Small Business Economics, 52(4), 815–830, https://doi.org/10.1007/s11187-017-9936-9.

8. Krueger, N. (1993), The Impact of Prior Entrepreneurial Exposure on Perceptions of New Venture Feasibility and Desirability, Entrepreneurship Theory and Practice, 18(1), 5-21.

9. Majid, I. A., Latif, A., Koe, W.-L. (2017), SMEs’ Intention towards Sustainable Entrepreneurship, European Journal of Multidisciplinary Studies, 4(3), https://doi.org/10.26417/ejms.v4i3.p24-32.

10. Nguyễn Thị Thu Hoài (2020), Xu hướng phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam, truy cập từ http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/xu-huong-phat-trien-kinh-te-xanh-o-viet-nam-313634.html.

11. Nikolaou, I. E., Tasopoulou, K., Tsagarakis, K. (2018), A Typology of Green Entrepreneurs Based on Institutional and Resource-based Views, The Journal of Entrepreneurship, 27(1), 111–132, https://doi.org/10.1177/0971355717738601.

12. Santoalha, A., Boschma, R. (2020), Diversifying in green technologies in European regions: Does political support matter?, Regional Studies, 12, 1–14, https://doi.org/10.1080/00343404.2020.1744122

13. Schaper, M. (2011), Entrepreneurship and small business (3rd Asia-Pacific ed), John Wiley & Sons Australia.

14. Shapero, A. (1975), The Displaced, Uncomfortable Entrepreneur (SSRN Scholarly Paper ID 1506368), Social Science Research Network, http://papers.ssrn.com/abstract=1506368

15. Shapero, A., Sokol, L. (1982), The Social Dimensions of Entrepreneurship (SSRN Scholarly Paper ID 1497759), Social Science Research Network, http://papers.ssrn.com/abstract=1497759

16. Trần Thị Hương (2018), Phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu, truy cập từ http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/phat-trien-kinh-te-xanh-o-viet-nam-trong-boi-canh-bien-doi-khi-hau-toan-cau-314827.html.

17. Yi, G. (2020), From green entrepreneurial intentions to green entrepreneurial behaviors: The role of university entrepreneurial support and external institutional support, International Entrepreneurship and Management Journal, 8, https://doi.org/10.1007/s11365-020-00649-y.

Ngày nhận bài: 12/12/2024; Ngày phản biện: 18/12/2024; Ngày duyệt đăng: 20/01/2025

* Nghiên cứu này được tài trợ bởi nhiệm vụ khoa học QG 21.61 của Đại học Quốc gia Hà Nội.