Hội thảo do CIEM tổ chức, sáng ngày 12/6, tại Hà Nội, nhằm phục vụ xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và kế hoạch 5 năm 2021-2025.

Vai trò của kinh tế nhà nước chưa rõ nét trong việc dẫn dắt, tạo động lực phát triển đối với nền kinh tế

Phát biểu tại hội thảo, TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM cho rằng, cần đánh giá lại kinh tế nhà nước cũng như việc thực hiện cơ cấu lại khu vực doanh nghiệp nhà nước, vai trò đóng góp của kinh tế nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội có thực sự mang lại hiệu quả hay không? Bên cạnh đó, xem xét hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và quyền tự chủ của họ. Hiện nay, doanh nghiệp tư nhân thường nói không được đối xử bình đẳng, còn doanh nghiệp nhà nước lại cho rằng, các chính sách chưa thực sự phát triển…

Ông Phạm Đức Trung, Trưởng ban Nghiên cứu cải cách và Phát triển doanh nghiệp của CIEM trình bày dự thảo Báo cáo nghiên cứu

TS. Nguyễn Đình Cung cho biết thêm, thực tế hiện nay, cả khối doanh nghiệp nhà nước lẫn khối tư nhân đều không phát triển được như mong muốn. Riêng khối doanh nghiệp nhà nước, không có đủ quyền tự chủ để vận hành theo cơ chế thị trường. Mặc dù Luật Doanh nghiệp đã quy định doanh nghiệp nhà nước có đầy đủ các quyền như công ty TNHH một thành viên tư nhân, song thực tế, quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước bị hạn chế bởi nhiều lý do…

Trình bày sơ thảo Báo cáo: “Đánh giá việc thực hiện cơ cấu lại khu vực doanh nghiệp nhà nước, vai trò của kinh tế nhà nước trong phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020; quan điểm, phương hướng của giai đoạn 2021-2030, kế hoạch 2021-2025”, ông Phạm Đức Trung, Trưởng ban Nghiên cứu cải cách và Phát triển doanh nghiệp, CIEM cho biết, mục tiêu cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước đến năm 2020 là: doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý hơn thông qua cổ phần hóa, thoái vốn; hoàn thành thoái vốn tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ vốn; phấn đấu đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp, hoàn thiện mô hình quản lý, giám sát; nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, xử lý dứt điểm các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài…

Trong Báo cáo của nhóm nghiên cứu cho thấy, trong giai đoạn 2010-2016, kinh tế nhà nước đóng góp cho thu ngân sách nhà nước sụt giảm đáng kể từ 45,4% năm 2010 xuống còn 32,3% năm 2016. Bên cạnh đó, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế của kinh tế nhà nước cũng ngày càng giảm dần. Năm 2011, kinh tế nhà nước đóng góp 29,01% cho tăng trưởng kinh tế, đến năm 2017 giảm xuống còn 28,63% và năm 2018 ước tính chỉ còn 27,67%. Nhóm nghiên cứu dự báo, đến năm 2020, khu vực kinh tế nhà nước sẽ chỉ đóng góp 5,6% cho tăng trưởng kinh tế, trong khi khu vực tư nhân là 43,87% và khu vực FDI được dự báo đóng góp 20,69%. Còn về công ăn việc làm, nhóm nghiên cứu dự báo đến năm 2020 đóng góp của khu vực kinh tế nhà nước chỉ còn 8%.

Đánh giá vai trò của kinh tế nhà nước ông Phạm Đức Trung cho rằng, nhìn trên tổng thể kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao, vai trò của kinh tế nhà nước chưa rõ nét trong việc dẫn dắt, tạo động lực phát triển đối với nền kinh tế và là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế.

Còn về cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước, Trưởng ban Nghiên cứu cải cách và Phát triển doanh nghiệp cho biết, việc điều chỉnh tiêu chí phân loại và thực hiện cổ phần hóa, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước đã giúp giảm mạnh về số lượng doanh nghiệp nhà nước, từ khoảng 6.000 doanh nghiệp năm 2011, giảm xuống còn 526 doanh nghiệp năm 2018.

Về cơ bản các doanh nghiệp đã đạt mục tiêu chuyển doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp đa sở hữu; quản trị tốt hơn, tự chủ hơn, lợi ích người lao động được đảm bảo; đồng thời, kết quả kinh doanh của đa số doanh nghiệp tốt hơn trước cổ phần hóa.

Tuy nhiên, ông Phạm Đức Trung cho biết, đối với việc cổ phần hóa, thoái vốn, mặc dù vẫn có thể hoàn thành kế hoạch số lượng cổ phần hóa đến năm 2020, nhưng chắc chắn sẽ không hoàn thành nhiều mục tiêu quan trọng, như: thu hút đầu tư xã hội, dẫn tới vẫn phải duy trì cổ phần nhà nước ở mức cao; chưa thể rút vốn Nhà nước để đầu tư vào ngành, lĩnh vực cần tới vai trò của kinh tế nhà nước, của doanh nghiệp Nhà nước. Chính vì vậy, chưa đạt được mục tiêu “doanh nghiệp Nhà nước có cơ cấu hợp lý hơn”. Vốn Nhà nước còn hiện diện ở hầu hết các ngành kinh doanh trong nền kinh tế.

Theo nhóm nghiên cứu, nguyên nhân chính của tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước còn chậm chủ yếu là do những tồn tại của thể chế và pháp luật. Về quản lý của chủ sở hữu Nhà nước, còn chưa tách bạch giữa quản lý thuộc chức năng sở hữu và quản lý nhà nước, tiềm ẩn nguy cơ đối xử bất bình đẳng và hạn chế cạnh tranh trên thực tế.

Bên cạnh đó, chính sách phát triển còn đan xen với chính sách sở hữu của Nhà nước. Ngoài ra, đầu tư nhà nước cho phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ các thành phần kinh tế còn đan xen với đầu tư vốn chủ sở hữu nhà nước cho doanh nghiệp nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp hà nước.

Còn về quản trị, quản lý, điều hành doanh nghiệp nhà nước, cơ chế quản trị chậm đổi mới, kém hiệu quả, chưa phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế; quyền tự chủ bị hạn chế so với doanh nghiệp khác do bối cảnh phải tăng cường quản lý, giám sát của nhà nước; hơn nữa, cách thức điều hành tại nhiều doanh nghiệp nhà nước còn lạc hậu…

Cơ cấu lại nguồn lực đầu tư đối với doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước

Đánh giá việc thực hiện vai trò của kinh tế nhà nước và cơ cấu lại khu vực doanh nghiệp nhà nước, PGS, TS. Lê Xuân Bá, nguyên VIện trưởng Viện CIEM cho rằng, trong kinh tế nhà nước, thì khu vực doanh nghiệp nhà nước là quan trọng nhất, song lại hoạt động kém hiệu quả. Do đó, doanh nghiệp nhà nước không thể giữ vai trò chủ đạo, quan điểm này sai ngay từ đầu. PGS, TS. Lê Xuân Bá cho rằng, cần làm rõ khái niệm kinh tế nhà nước và không nên tiếp tục bị mắc kẹt vào tư duy cũ.

Theo TS. Trần Tiến Cường, Chuyên gia kinh tế, quan điểm cơ cấu lại nguồn lực đầu tư đối với doanh nghiệp nhà nước và đơn vị kinh tế nhà nước cần có cách tiếp cận khác nhau, phù hợp với mỗi loại doanh nghiệp.

Theo đó, cần tăng cường sử dụng các chính sách vĩ mô do Nhà nước ban hành thay cho việc sử dụng doanh nghiệp nhà nước làm công cụ điều tiết vĩ mô; chỉ sử dụng doanh nghiệp nhà nước như là công cụ hỗ trợ cùng với công cụ chính sách để điều tiết vĩ mô và phải minh bạch hóa, thể chế hóa vai trò này của doanh nghiệp Nhà nước.

Ngoài ra, đặc biệt tăng cường việc giám sát, kiểm toán của chủ sở hữu nhà nước đối với vốn, tài sản Nhà nước; tăng cường năng lực phân tích, đánh giá, phát hiện, cảnh báo các vấn đề của doanh nghiệp nhà nước.

Để nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước trong thời gian tới, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV cho rằng, cần làm rõ quy mô, phạm vi nội hàm của kinh tế nhà nước, trong đó, doanh nghiệp nhà nước có vai trò, cấu trúc trong kinh tế nhà nước; Làm rõ hơn và bóc tách tái cơ cấu với ba hình thức cơ bản đó là: cổ phần hóa, thoái hóa vốn và thành phần khác; đồng thời, nhất quán, xây dựng và chuẩn hóa bộ tiêu chí đánh giá.

Đồng quan điểm, ông Phạm Đức Trung cho rằng, Việt Nam cần cụ thể vai trò của kinh tế nhà nước. Theo đó, cần đảm bảo hệ thống kết cấu hạ tầng và dịch vụ công cần thiết cho mọi hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế khác; đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia và môi trường kinh doanh an toàn cho các chủ thể kinh tế; phân bổ các tài sản sở hữu toàn dân cho các chủ thể kinh tế quản lý, sử dụng theo nguyên tắc cạnh tranh, bình đẳng, hiệu quả…

Còn về phương hướng, mục tiêu cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2021-2030, ông Phạm Đức Trung cho rằng, chiến lược 2021-2030 cần xác định rõ chỉ tiêu kinh tế doanh nghiệp nhà nước phải đạt được trên các mặt, như: hiệu suất sinh lời trên vốn nhà nước (giai đoạn 2001-2010 đã từng đạt bình quân 15%-17%/năm); năng suất lao động cần đặt ra các mục tiêu cụ thể (ví dụ: cao hơn mức bìnhquân, không thấp hơn khu vực FDI, trình độ công nghệ ngang bằng Asean...)

Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhà nước cần hoàn thành mục tiêu đáp ứng chuẩn mực quản trị với một số chỉ tiêu, như: được các tổ chức uy tín xếp hạng, thừa nhận; cần có chỉ tiêu về tỷ trọng các doanh nghiệp nhà nước niêm yết trên sàn chứng khoán trong nước và quốc tế... Đồng thời, hoàn thành việc xác lập thể chế kinh tế thị trường đối với doanh nghiệp nhà nước./.