Thông tư số 07/2019/TT-BKHĐT của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 03/2014/TT-BKHĐT hướng dẫn về đăng ký hợp tác xã và chế độ báo cáo tình hình hoạt động của hợp tác xã đã có hiệu lực thi hành kể từ ngày 28/5/2019.

Theo đó, việc tiếp nhận, xử lý hồ sơ, cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân và chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh được thực hiện theo quy định tại Khoản 6, Khoản 7 Điều 1 Thông tư số 07/2019/TT-BKHĐT, cụ thể: hồ sơ đăng ký hợp tác xã và thông tin hồ sơ đăng ký hợp tác xã được tiếp nhận và nhập đầy đủ, chính xác vào Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký hợp tác xã, trừ các trường hợp cấp theo quy trình dự phòng.

Còn nhiều vấn đề trong chuyển đổi dữ liệu đăng ký hợp tác xã
Nhiều trường hợp hợp tác xã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, nhưng Phòng Tài chính – Kế hoạch thuộc UBND cấp huyện không tiếp nhận hồ sơ và không nhập thông tin vào Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký hợp tác xã. Ảnh minh họa

Nhiều trường hợp đăng ký hợp tác xã không được nhập thông tin vào Hệ thống quốc gia

Thực tế, qua rà soát, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) nhận thấy, vẫn tồn tại nhiều trường hợp hợp tác xã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, nhưng Phòng Tài chính – Kế hoạch thuộc UBND cấp huyện không tiếp nhận hồ sơ và không nhập thông tin vào Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký hợp tác xã.

Bên cạnh đó, ngày 27/5/2020, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Công văn số 3492/BKHĐT-ĐKKD gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc triển khai Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký hợp tác xã. Theo hướng dẫn tại Công văn trên, trong giai đoạn đầu triển khai Thông tư số 07/2019/TT-BKHĐT, khi hợp tác xã nộp hồ sơ đăng ký thay đổi nội dung đăng ký hợp tác xã, cơ quan đăng ký hợp tác xã nhập thông tin vào Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký hợp tác xã và trao đổi thông tin với cơ quan thuế theo quy trình luân chuyển hồ sơ bằng bản giấy.

Tuy nhiên, tại một số địa phương, Phòng Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh và Phòng Tài chính – Kế hoạch cấp huyện vẫn tiếp tục cấp đăng ký thay đổi cho hợp tác xã không thông qua Hệ thống, sau đó thực hiện nhập dữ liệu về các lần đăng ký thay đổi này thông qua Hệ thống chuyển đổi dữ liệu Online form (http://dulieuhtx.dkkd.gov.vn) và đề nghị Cục Quản lý đăng ký kinh doanh hỗ trợ đồng bộ dữ liệu lên Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký hợp tác xã. Đề nghị này không phù hợp với hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Công văn số 3492/BKHĐT-ĐKKD nêu trên.

Để đảm bảo việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã tuân thủ đúng quy định của pháp luật, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Văn bản số 4607/BKHĐT-ĐKKD ngày 17/7/2020 gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị chấn chỉnh công tác đăng ký hợp tác xã, đăng ký hộ kinh doanh; đồng thời rà soát, thống kê các trường hợp không thực hiện tiếp nhận hồ sơ và nhập thông tin hồ sơ đăng ký hợp tác xã vào Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký hợp tác xã từ ngày 28/5/2019.

Tổng hợp kết quả rà soát, phản hồi của các địa phương theo yêu cầu trên tại Văn bản số 4607/BKHĐT-ĐKKD, tính đến ngày 10/9/2020, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh chỉ nhận được phản hồi của gần 40 địa phương, trong đó có khoảng 10 địa phương báo cáo cấp đăng ký hợp tác xã không đúng trình tự, thủ tục qua Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký hợp tác xã với số lượng khiêm tốn (khoảng gần 80 hợp tác xã). Tuy nhiên, trong thực tiễn, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh đã phát hiện có những hợp tác xã không nằm trong danh sách đã rà soát và nhiều địa phương đã cấp ngoài Hệ thống mà không có báo cáo rà soát.

Về vấn đề này, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh đã yêu cầu các địa phương phải rà soát, giải trình các trường hợp cấp đăng ký hợp tác xã không đúng trình tự, thủ tục theo quy định tại Thông tư số 07/2019/TT-BKHĐT mà có ngày cấp lần đầu hoặc các lần đăng ký thay đổi sau thời điểm 28/5/2019 khi Thông tư này có hiệu lực thi hành.

Trong quá trình tiếp nhận báo cáo rà soát, giải trình của địa phương, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh nhận thấy vẫn còn tồn tại các trường hợp sau:

Cơ quan đăng ký hợp tác xã tại địa phương tiếp tục thực hiện cấp đăng ký thành lập mới hợp tác xã sau ngày 17/7/2020, cá biệt có một số trường hợp cấp đăng ký thành lập mới hợp tác xã năm 2021 và 2022; sau đó, vẫn tùy tiện cấp đăng ký thay đổi cho các hợp tác xã này không thông qua Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký hợp tác xã.

Cơ quan đăng ký hợp tác xã tại địa phương không thực hiện chuyển đổi hoặc chuyển đổi thiếu dữ liệu đăng ký hợp tác xã đã cấp trước ngày 28/5/2019 và thực hiện cấp đăng ký thay đổi hợp tác xã không thông qua Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký hợp tác xã, cá biệt có một số trường hợp cấp đăng ký thay đổi hợp tác xã tại thời điểm tháng 4, tháng 5 năm 2022.

Cơ quan đăng ký hợp tác xã tại địa phương đã thực hiện chuyển đổi dữ liệu đăng ký hợp tác xã đã cấp trước ngày 28/5/2019 lên Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký hợp tác xã, tuy nhiên lại tiếp tục thực hiện cấp cấp đăng ký thay đổi hợp tác xã không thông qua Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký hợp tác xã dẫn tới dẫn tới: (i) sai lệch thông tin giữa Hệ thống và thực tế hồ sơ đăng ký thay đổi của hợp tác xã và (ii) Giấy chứng nhận đăng ký thay đổi của hợp tác xã được cấp không đúng trình tự, thủ tục theo quy định tại Thông tư 07/2019/TT-BKHĐT.

Cục Quản lý đăng ký kinh doanh nêu 4 giải pháp khắc phục

Để đảm bảo thông tin trong hồ sơ đăng ký hợp tác xã được lưu giữ tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký hợp tác xã có giá trị pháp lý là thông tin gốc về hợp tác xã, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh đã thực hiện một số giải pháp nhằm giải quyết những tồn tại nêu trên, cụ thể:

Đối với công tác quản lý nhà nước về đăng ký hợp tác xã tại cấp Trung ương

Thứ nhất, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh đã phối hợp với Tổng cục Thuế để chấn chỉnh công tác cấp mã số thuế đối với hợp tác xã theo hình thức liên thông tại Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, Tổng cục Thuế đã ban hành Văn bản số 2541/TCT-KK ngày 23/6/2020 gửi Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để chấn chỉnh và quán triệt bộ phận đăng ký thuế tại các Chi cục Thuế thực hiện cấp mã số thuế theo đúng hướng dẫn về liên thông đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế đối với hợp tác xã.

Trường hợp nếu sau ngày quán triệt tại Văn bản số 2541/TCT-KK nói trên, hợp tác xã và đơn vị trực thuộc của hợp tác xã vẫn được cấp mã số thuế không theo hình thức liên thông thì cơ quan thuế cấp mã số thuế đó sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về những vướng mắc phát sinh có liên quan đến việc cấp mã số thuế không đúng theo quy định.

Thứ hai, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Quy chế số 01/2022/QLLT-BTC-BKHĐT ngày 13/01/2022 về trao đổi thông tin về hợp tác xã giữa Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký hợp tác xã và Hệ thống ứng dụng đăng ký Thuế. Quy chế có hiệu lực kể từ ngày 10/02/2022.

Theo quy định tại Khoản 1, 2 Điều 17 Quy chế này thì đối với dữ liệu lịch sử trước khi chuyển đổi phải rà soát và chuẩn hóa dữ liệu. Trong quá trình trao đổi, rà soát dữ liệu lịch sử hai bên phải có báo cáo đối chiếu để đảm bảo tình trạng đồng bộ thông tin giữa hai bên trước khi đưa vào Hệ thống. Định kỳ hàng tháng, quý, năm cơ quan thuế và cơ quan đăng ký hợp tác xã có trách nhiệm rà soát, chuẩn hóa dữ liệu để đồng bộ thông tin về hợp tác xã giữa hai Hệ thống.

Đối với công tác quản lý nhà nước về đăng ký hợp tác xã tại cấp địa phương

Cục Quản lý đăng ký kinh doanh đã ban hành các văn bản gửi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (để chỉ đạo Phòng Đăng ký kinh doanh) và Ủy ban nhân dân cấp huyện (để chỉ đạo Phòng Tài chính – Kế hoạch) thực hiện một số nội dung sau:

Thứ nhất, chấn chỉnh và thực hiện nghiêm túc công tác cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã theo đúng quy định của pháp luật.

Thứ hai, kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm của các cá nhân trong việc thực hiện cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã không đúng theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.

Đối với trường hợp cấp ngoài và chưa được đồng bộ vào Hệ thống

* Trường hợp 1: hồ sơ đăng ký hợp tác xã hợp lệ theo quy định tại Luật Hợp tác xã, Nghị định số 193/2013/NĐ-CP, Thông tư số 03/2014/TT-BKHĐT và Thông tư số 07/2019/TT-BKHĐT hoặc hợp tác xã đã được cấp mã số thuế, cơ quan đăng ký hợp tác xã tại địa phương phải có văn bản cam kết việc cấp đăng ký thay đổi nội dung đăng ký hợp tác xã trên cơ sở hồ sơ hợp lệ và gửi về Cục Quản lý đăng ký kinh doanh; đồng thời thực hiện nhập dữ liệu tại phần mềm Online form và đảm bảo thông tin chính xác và đồng nhất với hồ sơ đăng ký thay đổi hợp lệ lưu trữ tại địa phương. Cơ quan đăng ký hợp tác xã phải chịu trách nhiệm về việc cấp đăng ký hợp tác xã không thông qua Hệ thống.

* Trường hợp 2: hồ sơ đăng ký hợp tác xã chưa hợp lệ theo quy định tại Luật Hợp tác xã, Nghị định số 193/2013/NĐ-CP, Thông tư số 03/2014/TT-BKHĐT và Thông tư số 07/2019/TT-BKHĐT hoặc hợp tác xã chưa được cấp mã số thuế, cơ quan đăng ký hợp tác xã tại địa phương hướng dẫn hợp tác xã làm lại hồ sơ theo quy định tại khoản 3 Điều 18 Thông tư 03/2014/TT-BKHĐT để được xem xét cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã.

Đối với các trường hợp đã được đồng bộ lên Hệ thống, nhưng vẫn thực hiện cấp ngoài Hệ thống

* Trường hợp 1: hồ sơ đăng ký hợp tác xã hợp lệ theo quy định tại Luật Hợp tác xã, Nghị định số 193/2013/NĐ-CP, Thông tư số 03/2014/TT-BKHĐT và Thông tư số 07/2019/TT-BKHĐT, cơ quan đăng ký hợp tác xã tại địa phương phải có cam kết việc cấp đăng ký thay đổi nội dung đăng ký hợp tác xã trên cơ sở hồ sơ hợp lệ và gửi về Cục Quản lý đăng ký kinh doanh; đồng thời, cơ quan đăng ký hợp tác xã thực hiện tiếp nhận theo quy trình nội bộ, bổ sung thông tin lần cấp ngoài Hệ thống, tải và đính kèm hồ sơ đăng ký thay đổi hợp tác xã, văn bản cam kết lên Hệ thống. Cơ quan đăng ký hợp tác xã phải chịu trách nhiệm về việc cấp đăng ký hợp tác xã không thông qua Hệ thống.

+ Trường hợp 2: hồ sơ đăng ký hợp tác xã chưa hợp lệ theo quy định tại Luật Hợp tác xã, Nghị định số 193/2013/NĐ-CP, Thông tư số 03/2014/TT-BKHĐT và Thông tư số 07/2019/TT-BKHĐT, cơ quan đăng ký hợp tác xã tại địa phương hướng dẫn hợp tác xã làm lại hồ sơ theo quy định tại khoản 3 Điều 18 Thông tư 03/2014/TT-BKHĐT để được xem xét cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã./.