Để thực hiện mục tiêu phát triển các KCN theo hướng bền vững, cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị tỉnh Vĩnh Phúc
Hội nghị “Phát triển bền vững KCN tỉnh Vĩnh Phúc” là diễn đàn trao đổi, thảo luận để làm sáng tỏ thêm về thực trạng tình hình phát triển KCN trên địa bàn Tỉnh trong thời gian qua và định hướng trong thời gian tới; tìm ra những giải pháp giải quyết các tồn tại, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cản trở tốc độ tăng trưởng trong lĩnh vực công nghiệp, khơi thông điểm nghẽn, phát triển bền vững KCN trên địa bàn Tỉnh. Góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc nhiệm kỳ 2020-2025 và từng bước hiện thực hóa Quy hoạch tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Các KCN –“lực kéo” thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc
Phát biểu tại Hội nghị “Phát triển bền vững khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc” diễn ra ngày 20/9 vừa qua tại tỉnh Vĩnh Phúc, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc Trần Duy Đông đánh giá cao những cố gắng nỗ lực của các cấp, các ngành trong Tỉnh trong việc xây dựng và phát triển hệ thống các KCN của Tỉnh lớn mạnh cả chiều rộng lẫn chiều sâu như hiện nay.
Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc Trần Duy Đông và các đại biểu tham dự Hội nghị “Phát triển bền vững KCN tỉnh Vĩnh Phúc” |
Đánh giá tổng quan tình hình phát triển các KCN của Tỉnh, ông Trần Duy Đông cho biết: Sau 27 năm xây dựng và phát triển, tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội; một trong những bài học kinh nghiệm về thành công của tỉnh Vĩnh Phúc đó là luôn kiên định chủ trương lấy công nghiệp làm mũi nhọn đột phá, là động lực cho tăng trưởng kinh tế - xã hội của Tỉnh; trong đó việc phát triển các KCN là một trong những giải pháp quan trọng để hiện thực hóa chủ trương trên.
Với xuất phát điểm sản xuất công nghiệp còn manh mún, chưa hình thành KCN, cụm công nghiệp (CCN); đến nay trên địa bàn Tỉnh đã có 29 KCN được quy hoạch, trong đó có 17 KCN được thành lập với tổng diện tích là 3.146 ha. Thu hút đầu tư nhiều năm liên tiếp của Vĩnh Phúc thuộc top đầu của cả nước. Đến nay, trong các KCN trên địa bàn Tỉnh có 493 dự án đầu tư còn hiệu lực, trong đó có 376 dự án FDI với tổng vốn đầu tư 6,74 tỷ USD thuộc 20 quốc gia, vùng lãnh thổ đầu tư, giải quyết việc làm cho trên 142 nghìn lao động, qua đó góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh, đưa Vĩnh Phúc trở thành tỉnh có kinh tế phát triển nhanh, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao. Thu ngân sách của Tỉnh nhiều năm liền năm trong top các tỉnh có số thu ngân sách cao của cả nước và tự cân đối ngân sách, điều tiết cho ngân sách trung ương.
Ông Trần Duy Đông nhấn mạnh: Thực hiện Nghị quyết số 81 của Quốc hội về quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050; Quyết định số 368 của Thủ tướng Chính phủ quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng và Quyết định số 158 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, tỉnh Vĩnh Phúc tiếp tục được xác định là một trong những tỉnh xây dựng vành đai công nghiệp Bắc Giang - Thái Nguyên - Vĩnh Phúc - Phú Thọ, trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng của cả vùng; trung tâm công nghiệp vùng Thủ đô Hà Nội…. Như vậy, trong thời kỳ tiếp theo, tỉnh Vĩnh Phúc tiếp tục được xác định là một trong những tỉnh ưu tiên phát triển công nghiệp của cả nước, của vùng Đồng bằng sông Hồng.
Cần thảo luận, chỉ rõ những rào cản trong phát triển các KCN
Theo Chủ tịch UBND Tỉnh Trần Duy Đông, những khó khăn, vướng mắc hiện nay đã và đang ảnh hưởng nghiệm trọng đến quá trình phát triển KCN, nên đề nghị các đại biểu dự Hội nghị cần thảo luận để làm rõ và đưa ra các bài học kinh nghiệm, giải pháp trong triển khai thực hiện phát triển các KCN của Tỉnh trong giai đoạn tới.
Theo đó, đánh giá chung những khó khăn, vướng mắc hiện nay của Tỉnh trong phát triển các KCN, đồng chí Chủ tịch tỉnh Vĩnh Phúc đã chỉ ra 10 nội dung sau:
Một là, tồn tại, vướng mắc thực thi pháp luật liên quan đến KCN: Tính pháp lý về quy định khung đối với KCN chưa cao. Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động KCN mới dừng lại ở cấp nghị định, thường có sự xung đột, thiếu thống nhất khi các nghị định của pháp luật chuyên ngành được sửa đổi, bổ sung, thay thế. Mô hình phát triển KCN hỗ trợ, KCN sinh thái, KCN công nghệ cao…, chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể.
Hai là, công tác bồi thường (BT), giải phóng mặt bằng (GPMB); việc triển khai các khu tái định cư, di chuyển mồ mả gặp nhiều khó khăn.
Ba là, nguồn đất san nền cho các dự án KCN trong thời gian gần đây gặp nhiều khó khăn.
Bốn là, xác định giá đất cho các KCN chậm được thực hiện.
Năm là, chất lượng quy hoạch xây dựng còn hạn chế.
Sáu là, năng lực và hiệu lực thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá đầu tư của các cơ quan trong Tỉnh chưa cao; công tác phối hợp giữa các sở ban, ngành, chủ đầu tư hạ tầng KCN với chính quyền địa phương còn nhiều hạn chế.
Bảy là, năng lực, kinh nghiệm của một số chủ đầu tư hạ tầng KCN trên địa bàn còn hạn chế; một số KCN đã đi vào hoạt động nhưng chưa được đầu tư hoàn chỉnh, đồng bộ về hạ tầng; việc duy tu bảo dưỡng, chăm sóc, vận KCN chưa được quan tâm đúng mức.
Tám là, thu hút đầu tư: Trong những năm gần đây, thu hút được rất ít dự án có quy mô lớn, hiệu quả kinh tế cao (các nhà đầu tư chiến lược), lợi thế cạnh tranh của Tỉnh có xu hướng giảm sút, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh hiện có. Ngoài ra, các ngành công nghiệp mũi nhọn của Tỉnh trong lĩnh vực công nghiệp ô tô, xe máy, vật liệu xây dựng… có xu hướng giảm dần lợi thế cạnh tranh. Các dự án DDI chủ yếu là dự án có quy mô nhỏ và vừa. Một số chủ đầu tư có năng lực hạn chế, “vốn mỏng” dẫn đến dự án chậm tiến độ, kinh doanh không hiệu quả; năng lực tài chính, trình độ quản lý, công nghệ, sức cạnh tranh hạn chế.
Việc kết nối trong sản xuất, kinh doanh và chuyển giao công nghệ giữa khối doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Số lượng doanh nghiệp trong nước trên địa bàn Tỉnh tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI không nhiều.
Chín là, giá thuê đất bình quân trên địa bàn Tỉnh (130-150 USD/m2, có dự án đến 170 USD/m2) cao hơn so với mặt bằng chung một số tỉnh lân cận như: Bắc Giang, Hưng Yên, Hải Dương… làm giảm tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư.
Mười là, việc phát triển các khu nhà ở, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động làm việc trong KCN chậm được triển khai là một trong những yếu tố sẽ làm giảm sức cạnh tranh về lao động và môi trường đầu tư.
Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc Trần Duy Đông đi kiểm tra tình hình đầu tư hạ tầng, phát triển công nghiệp của Khu công nghiệp Bá Thiện 1 |
Bài học kinh nghiệm để đầu tư KCN đạt hiệu quả cao và phát triển bền vững
Phát biểu kết luận Hội nghị “Phát triển bền vững KCN tỉnh Vĩnh Phúc”, ông Trần Duy Đông khẳng định: Trên cơ sở báo cáo của Ban Quản lý các KCN về tình hình phát triển KCN trên địa bàn Tỉnh và định hướng phát triển trong thời gian tới; ý kiến phát biểu của Thường trực HĐND Tỉnh, đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các ý kiến của các chủ đầu tư hạ tầng KCN, doanh nghiệp trong KCN và ý kiến tham luận, giải trình làm rõ của lãnh đạo các sở, UBND các huyện đã làm sáng tỏ về thực trạng tình hình phát triển KCN trên địa bàn Tỉnh trong thời gian qua và định hướng phát triển trong thời gian tới.
Thay mặt Lãnh đạo UBND tỉnh Vĩnh Phúc, Chủ tịch UBND Tỉnh Trần Duy Đông cho biết: Thực tiễn cho thấy, từ khi tái lập Tỉnh (năm 1997) đến nay, Vĩnh Phúc luôn nhất quán trong tư duy, tầm nhìn đổi mới, trong đó xác định tập trung phát triển công nghiệp, coi công nghiệp là nền tảng, động lực để phát triển; tăng cường cải thiện môi trường đầu tư; huy động, khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân (với các kết quả thực tế đã minh chứng ở trên). “Thông qua Hội nghị, có thể khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của phát triển KCN đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc”, ông Đông nhấn mạnh.
Chủ tịch UBND tỉnh Trần Duy Đông phát biểu kết luận Hội nghị |
Ông Trần Duy Đông tóm tắt một số vấn đề quan trọng được Hội nghị quan tâm thảo luận để làm sáng tỏ thêm về thực trạng tình hình phát triển KCN trên địa bàn Tỉnh trong thời gian qua (nhất là làm rõ các khó khăn, vướng mắc, tồn tại hạn chế), từ đó tìm ra những giải pháp để thúc đẩy phát triển các KCN trên địa bàn Tỉnh theo hướng bền vững, trong đó tập trung một số vấn đề như:
Thứ nhất, xu hướng tất yếu phải chuyển đổi phát triển KCN theo hướng bền vững; Phát triển bền vững các KCN trên địa bàn Tỉnh sẽ góp phần hiện thực hóa các cam kết hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 theo đúng chủ trương của Đảng và nhà nước.
Thứ hai, Hội nghị chỉ ra một số điểm nghẽn trong nhận thức, triển khai thực hiện và quản trị đối với các KCN, qua đó có các giải pháp cụ thể hơn trong tổ chức, thực hiện.
Ông Trần Quốc Trung, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý các Khu kinh tế (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) góp ý cho Vĩnh Phúc những giải pháp cần triển khai thực hiện phát triển các KCN bền vững trong thời gian tới tại Hội nghị |
Thứ ba, bài học kinh nghiệm để đầu tư KCN có hiệu quả phải thu hút được các chủ hạ tầng có năng lực, có kinh nghiệm và chuyên nghiệp trong thu hút đầu tư; đồng thời phải tháo gỡ một số vấn đề sau:
(1) Thực tiễn vừa qua, có chủ đầu tư hạ tầng phải nâng giá thuê đất đã ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, giảm năng lực cạnh tranh của Tỉnh nói chung và giảm tính cạnh tranh trực tiếp của KCN (17 KCN đã thành lập với quy mô là 3.142,96 ha, bình quân mỗi KCN có quy mô là 184,88 ha). Để kinh doanh có lãi, các chủ đầu tư hạ tầng đã cho thuê với giá khoảng 130-150 USD/m2, có dự án trên 170 USD/m2, giá thuê nhà xưởng trong KCN bình quân khoảng 4-5 USD/m2/tháng; cao hơn mặt bằng chung một số tỉnh, nên đã có những nhà đầu tư chuyển sang tỉnh khác, nước khác.
Ông Hà Đình Nhã, Trưởng ban, Ban Quản lý các KCN Vĩnh Phúc báo cáo tình hình phát triển KCN trên địa bàn Tỉnh và định hướng phát triển trong thời gian tới |
2) Thực tế cho thấy, chủ đầu tư hạ tầng KCN không chỉ đơn thuần là kinh doanh bất động sản KCN, mà phải thực hiện tốt chiến lược marketing, thu hút đầu tư và phải có khả năng cung cấp các dịch vụ đi kèm như: về môi trường, về viễn thông, cây xanh, xử lý nước thải, hạ tầng xã hội (nhà ở xã hội, thậm trí bệnh viện, trường học, khu dịch vụ,) đáp ứng đầy đủ nhu cầu của nhà đầu tư thứ cấp, cũng như nhu cầu của đội ngũ chuyên gia, người lao động..
(3) Chất lượng một số doanh nghiệp thứ cấp chưa cao, nhất là doanh nghiệp trong nước có công nghệ thấp, suất đầu tư thấp, giá trị gia tăng không cao. Một số chủ đầu tư hạ tầng KCN chưa quan tâm đến chất lượng doanh nghiệp thứ cấp và chủ yếu quan tâm đến việc cho thuê được đất với giá cao. Trong thời gian tới cần có những tiêu chí, công cụ thu hút đầu tư có chọn lọc, sàng lọc dự án đầu tư; bộ tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư xây dựng, kinh doanh hạ tầng KCN, đảm bảo lựa chọn được các nhà đầu tư đủ năng lực, điều kiện để thực hiện dự án theo định hướng thu hút đầu tư trên địa bàn Tỉnh.
Ông Trịnh Văn Quang, Giám đốc phát triển Dự án Công ty Cổ phần Vina CPK, KCN Bá Thiện II, huyện Bình Xuyên phát biểu tại Hội nghị |
(4) Tỷ lệ lấp đầy thấp, đến nay tỷ lệ lấp đầy KCN chỉ đạt 44,62%, thấp hơn mức bình quân khoảng gần 70%. Theo báo cáo diện tích đất theo quy hoạch của các KCN đã được thành lập, nhưng chưa GPMB được là 1.240 ha (trong đó đất công nghiệp là 867,68 ha), đất đã được giao nhưng chưa cho nhà đầu tư thứ cấp thuê là 437,5 ha (do chưa đảm bảo hạ tầng; chưa cho nhà đầu tư thứ cấp thuê…). Điều này cho thấy do hạ tầng yếu, năng lực chủ đầu tư hạ tầng yếu.
Trong khi đó, quỹ đất sạch có thể cho thuê ngay hiện nay có khoảng 70 ha đất và nhà xưởng cho thuê. Như vậy, trường hợp xúc tiến đầu tư hoặc có nhà đầu tư cần quỹ đất sạch để đầu tư ngay là rất khó khăn. Đây là vấn đề rất lớn, cần phải có giải pháp để tháo gỡ.
(5) Việc phát triển KCN phải đi kèm với triển khai hạ tầng xã hội (bao gồm nhà ở công nhân, các thiết chế văn hóa, thể thao, chương trình phúc lợi phục vụ người lao động) để gắn kết, đồng bộ với phát triển KCN, nhằm giải quyết tốt phúc lợi, đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động đang gặp khó khăn.
Bà Đàm Thị Bích Ngọc, Giám đốc Công ty Cổ phần Amane, Chủ đầu tư KCN Thái Hòa - Liễn Sơn - Liên Hòa, huyện Lập Thạch phát biểu tại Hội nghị |
Chủ tịch UBND Tỉnh Vĩnh Phúc giao nhiệm vụ cụ thể cho các ngành, các cấp trong Tỉnh
Theo Chủ tịch UBND Tỉnh Trần Duy Đông, để thực hiện có hiệu quả mục tiêu đã nêu trên, cần có sự vào cuộc cả hệ thống chính trị của Tỉnh, sự nỗ lực tập trung giải quyết các khó khăn, vướng mắc của các cấp, các ngành, các cơ quan liên quan trong Tỉnh, trong đó cần tập trung các nhiệm vụ sau:
Nhiệm vụ chung:
Các sở, ngành; UBND huyện, thành phố tiếp tục tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước đối với các KCN theo chức năng, nhiệm vụ được giao, cụ thể như sau:
Một là, tập trung quyết liệt vào công tác BT, GPMB; nâng cao hơn nữa trách nhiệm của cơ quan đầu mối giúp UBND Tỉnh về công tác quản lý nhà nước về KCN, của các cơ quan quản lý chuyên ngành, các địa phương; thường xuyên nắm bắt tình hình, kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ, đưa các dự án vào hoạt động theo đúng kế hoạch, nhất là các KCN đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư.
Hai là, tập trung giải quyết ngay các khó khăn, vướng mắc về xác định giá đất; nguồn đất san nền cho các dự án, đảm bảo kịp thời nhưng chặt chẽ, không để xảy ra sai sót.
Ba là, tiếp tục nghiên cứu, có chính sách mang tính dài hạn, ổn định trong hỗ trợ phát triển KCN đối với nội dung thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của Tỉnh nhằm nâng cao hiệu quả công tác phát triển KCN trên địa bàn Tỉnh, tạo điều kiện hỗ trợ các chủ đầu tư và thu hút các doanh nghiệp vào sản xuất, kinh doanh trong KCN hoạt động theo quy định.
Bốn là, nghiên cứu để có phương án phân cấp, ủy quyền phù hợp, theo hướng nâng cao hiệu quả quản lý gắn với tạo điều kiện thuận lợi, giải quyết kịp thời các khó khăn, hỗ trợ tốt nhất cho các chủ đầu tư hạ tầng, các doanh nghiệp trong KCN.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số, nâng cao trách nhiệm, chất lượng công tác tham mưu, lề lối làm việc, cách thức giải quyết công việc để giải quyết khẩn trương, có hiệu quả các thủ tục liên quan đến đất đai, đầu tư, xây dựng, cấp phép xây dựng, nghiệm thu xây dựng, nghiệm thu phòng cháy, chữa cháy…, nhằm hỗ trợ nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ dự án.
Sáu là, thực hiện tốt Quy chế phối hợp giữa các cơ quan, chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc theo Quyết định số 40/2022/QĐ-UBND, ngày 25/11/2022 của UBND tỉnh.
Bảy là, lập kế hoạch và triển khai giải quyết các khó khăn vướng mắc cho các KCN thuộc chức năng, nhiệm vụ được giao. Yêu cầu các cơ quan có lộ trình giải quyết dứt điểm các khó khăn, vướng mắc hiện nay của các KCN. Định kỳ hàng tháng/quý báo cáo kết quả giải quyết khó khăn, vướng mắc cho các KCN (Qua Ban Quản lý các KCN tổng hợp chung).
Tám là, khẩn trương hoàn thành các nhiệm vụ nhằm tháo gỡ khó khăn về bồi thường GPMB, giao đất, xác định giá đất, về đất đắp nền… cho các dự án hạ tầng KCN đã được UBND Tỉnh chỉ đạo tại các Thông báo số 118/TB-UBND ngày 20/8/2024 và số 125/TB-UBND ngày 30/8/2024 và 136/TB-UBND ngày 09/9/2024).
Nhiệm vụ cụ thể:
Ban Quản lý các KCN: Chủ trì, phối hợp với các sở, ngành, địa phương liên quan tiếp tục chủ động hơn nữa trong việc tham mưu, đề xuất với UBND Tỉnh nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về KCN trên địa bàn Tỉnh theo đúng quy định của pháp luật, ý kiến chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, Tỉnh ủy, HĐND Tỉnh… Trong đó:
(1) Nghiên cứu, tham mưu cho UBND Tỉnh về định hướng phát triển các KCN theo hướng phát triển KCN hỗ trợ, KCN chuyên ngành, KCN công nghệ cao, công nghiệp bán dẫn; Quy hoạch, phát triển các KCN trong thời gian tới phải có quy mô đủ lớn để thuận lợi cho đầu tư đồng bộ hạ tầng, giảm giá thuê đất KCN để tăng khả năng cạnh tranh trong thu hút đầu tư so với các địa phương khác.
(2) Khẩn trương tổ chức lập quy hoạch xây dựng KCN theo quy định tại Nghị định số 35/2022/NĐ-CP và các quy định có liên quan để có căn cứ thu hút đầu tư phát triển các KCN mới trong năm 2025 và những năm tiếp theo.
(3) Tham mưu cho UBND Tỉnh thu hút các nhà đầu tư xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng KCN có tiềm lực tài chính, có kinh nghiệm phát triển thành công các KCN trên địa bàn cả nước; thực hiện đầu tư phát triển các KCN chặt chẽ, đúng quy hoạch đã được phê duyệt; tiếp tục khắc phục những tồn tại, hạn chế, nâng cao chất lượng đầu tư hạ tầng các KCN; phát triển các KCN phải gắn chặt với yêu cầu bảo vệ môi trường.
(4) Đôn đốc, giám sát các nhà đầu tư để hoàn thiện, duy trì hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và ổn định sản xuất kinh doanh các KCN hiện có; tập trung nguồn lực vào công tác BT, GPMB và hoàn thiện đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật, trạm xử lý nước thải tập trung tại các KCN.
(5) Nỗ lực thu hút thành công các dự án lớn, các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia, các dự án công nghệ cao, công nghệ bán dẫn để chuyển dịch mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, tăng hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng theo hướng chủ động, tích cực, trọng tâm, trọng điểm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững.
(6) Phối hợp chặt chẽ với các sở ngành, địa phương, chủ đầu tư dự án hạ tầng KCN, các nhà đầu tư thứ cấp kịp thời nắm bắt thông tin, đôn đốc tiến độ thực hiện, tháo gỡ khó khăn vướng mắc của dự án.
(7) Định kỳ hàng tháng/quý tổng hợp báo cáo về các khó khăn, vướng mắc; đề xuất giải quyết khó khăn vướng mắc cho các KCN (đề xuất phải cụ thể cơ quan chủ trì, thời hạn giải quyết).
(8) Khẩn trương hoàn thành việc khắc phục, đôn đốc giám sát các nhà đầu tư khắc phục các tồn tại đã được chỉ ra trong kết luận của các đoàn thanh tra, kiểm tra, kiểm toán liên quan đến KCN.
Các sở, ngành chức năng:
(1) Sở Tài nguyên và Môi trường: Giải quyết các khó khăn, vướng mắc về BT, GPMB, giao đất; nguồn đất san nền; xác định giá đất cho các KCN (nhiệm vụ cụ thể, thời gian hoàn thành UBND Tỉnh đã giao tại các Văn bản số 118/TB-UBND ngày 20/8/2024 và số 125/TB-UBND ngày 30/8/2024 và số 136/TB-UBND ngày 09/9/2024)
(2) Sở Xây dựng: Giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong công tác rà soát, lập quy hoạch xây dựng KCN để phát triển các KCN mới; các vướng mắc liên quan đến việc lập quy hoạch xây dựng KCN Lập Thạch I, Lập Thạch II, việc điều chỉnh quy hoạch nghĩa trang đầm Trôi ra khỏi KCN Nam Bình Xuyên (nhiệm vụ UBND Tỉnh đã giao tại Văn bản số 5931/UBND- CN3 ngày 12/8/2024); chủ trì, phối hợp với UBND các huyện, thành phố và các đơn vị liên quan rà soát, nghiên cứu, bố trí quỹ đất trong quy hoạch xây dựng với quy mô phù hợp để thu hút các nhà đầu tư đầu tư dự án nhà ở xã hội phục vụ người lao động trong KCN theo đúng quy định của pháp luật.
(3) Sở Kế hoạch và Đầu tư: Tham mưu UBND Tỉnh triển khai nội dung chương trình xúc tiến đầu tư năm 2024; Đề án hỗ trợ kết nối, liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp của Tỉnh và các doanh nghiệp FDI từng bước tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu; Đề án thu hút các nhà đầu tư chiến lược đến đầu tư tại Tỉnh đến năm 2030; rà soát, tham mưu cho UBND Tỉnh về nguồn vốn hoàn trả Quỹ phát triển đất đối với tái định cư phục vụ GPMB các dự án hạ tầng KCN theo đúng quy định của pháp luật.
(4) Sở Công Thương: Tham mưu cho UBND Tỉnh thúc đẩy phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp bán dẫn; chỉ đạo, đôn đốc, tháo gỡ vướng mắc các dự án, công trình điện để đẩy nhanh tiến độ hoàn thành dự án, đảm bảo cung ứng điện an toàn, ổn định phục vụ sản xuất kinh doanh và phát triển công nghiệp trên địa bàn Tỉnh.
(5) Sở Lao động - Thương binh và Xã hội: Có giải pháp phát triển thị trường lao động trên địa bàn Tỉnh để đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp của Tỉnh trong thời gian tới. Phối hợp với Ban Quản lý các KCN hướng dẫn, kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp trong việc thực hiện các chính sách cho người lao động, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội; nâng cao chất lượng đào tạo nghề, đội ngũ công nhân kỹ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu lao động của doanh nghiệp.
(6) Sở Tài chính: Tham mưu cho UBND Tỉnh bố trí vốn, tạm ứng ngân sách để thuê tư vấn lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng các KCN, lập quy hoạch phân khu các KCN chưa có chủ đầu tư để đảm bảo kế hoạch và thu hút đầu tư theo đúng quy định của pháp luật.
(7) Công an Tỉnh: Chỉ đạo các phòng, ban, đơn vị nghiệp vụ, công an cấp huyện hỗ trợ UBND các huyện, thành phố trong việc xử lý những vi phạm đất đai; sẵn sàng cưỡng chế theo đúng quy định của pháp luật để bảo vệ thi công đối với các trường hợp cố tình không chấp hành quyết định thu hồi đất.
(8) Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường: Nghiên cứu, tham mưu cho UBND Tỉnh ủy quyền, phân cấp các lĩnh vực về môi trường, xây dựng cho Ban Quản lý các KCN thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Các huyện, thành phố:
UBND các huyện, thành phố tiếp tục tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu tái định cư, tiến độ thực hiện công tác BT, GPMB, giao đất cho các KCN trên địa bàn huyện, thành phố, hỗ trợ các chủ đầu tư xây dựng các KCN.
Ban Thường vụ huyện ủy, thành ủy các huyện, thành phố tiếp tục quan tâm chỉ đạo hệ thống chính trị của địa phương vào cuộc tuyên truyền, vận động người dân trong công tác bồi thường GPMB; chỉ đạo, đôn đốc UBND huyện, thành phố tháo gỡ khó khăn vướng mắc đẩy nhanh tiến độ GPMB các dự án KCN.
Thường trực HĐND Tỉnh: Báo cáo, trình HĐND Tỉnh xem xét, thông qua các cơ chế chính sách (thuộc thẩm quyền) về hỗ trợ các KCN, các doanh nghiệp trong KCN (trên cơ sở UBND Tỉnh trình). Xem xét, giải quyết các khó khăn vướng mắc (thuộc thẩm quyền) của các KCN, doanh nghiệp trong KCN.
Ban Tuyên giáo, Ban Dân vận Tỉnh ủy, Ủy ban MTTQ Tỉnh: Tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, vận động người dân thực hiện tốt công tác BT, GPMB cho các KCN.
Các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh; các Hiệp hội, hội doanh nghiệp và các cơ quan có liên quan khác: Theo chức năng nhiệm vụ được giao tiếp tục hỗ trợ các KCN, các doanh nghiệp trong KCN trong đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh.
Yêu cầu các chủ đầu tư hạ tầng KCN, các doanh nghiệp trong KCN: Chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật, tích cực thực hiện dự án đầu tư theo đúng hồ sơ đăng ký…, trong đó:
Các chủ đầu tư hạ tầng KCN tập trung nguồn lực tối đa để triển khai dự án đảm bảo hạ tầng KCN đồng bộ, hiện đại, đạt chất lượng... Thực hiện dự án đúng tiến độ; tuân thủ đúng quy định của pháp luật về quy hoạch, đầu tư, xây dựng, bảo vệ môi trường và các quy định khác có liên quan; phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, các cơ quan liên quan trong công tác BT, GPMB. Các chủ đầu tư hạ tầng KCN có giải pháp nâng cao kỹ năng đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN, quan tâm chăm sóc, duy tu bảo dưỡng, vận hành hệ thống cây xanh, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, đảm bảo giá thuê đất KCN, giá thuê nhà xưởng trong KCN hợp lý.
Các chủ đầu tư dự án thứ cấp trong KCN tập trung nguồn lực tối đa thực hiện dự án đúng tiến độ; tuân thủ đúng quy định của pháp luật về quy hoạch, đầu tư, xây dựng, bảo vệ môi trường và các quy định khác có liên quan.
Bế mạc Hội nghị “Phát triển bền vững khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc” Chủ tịch UBND Tỉnh Vĩnh Phúc Trần Duy Đông trân trọng cảm ơn sự tham gia tích cực, nhiệt tình của các quý vị đại biểu đã đóng góp các ý kiến hết sức quý báu, có ý nghĩa quan trọng đóng góp cho sự phát triển của các KCN trên địa bàn Tỉnh và giúp cho Hội nghị được tổ chức thành công tốt đẹp.
“Tôi tin tưởng rằng, với quyết tâm cao, tinh thần đổi mới, sáng tạo, tuân thủ pháp luật, sự đoàn kết đồng lòng của các cấp, các ngành; sự hỗ trợ vào cuộc của các cơ quan Trung ương trên địa bàn Tỉnh; các hiệp hội, hội doanh nghiệp, các nhà đầu tư trên địa bàn Tỉnh...,, các KCN trên địa bàn Tỉnh sẽ phát triển bền vững, các doanh nghiệp sẽ tiếp tục gặt hái được nhiều thành công trong thời gian tới”, Chủ tịch UBND Tỉnh Trần Duy Đông bày tỏ kỳ vọng./.
Các đại biểu tham dự Hội nghị “Phát triển bền vững KCN tỉnh Vĩnh Phúc” |
Bình luận