Ngô Anh Tín

Viện Khoa học Liên ngành, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành

Sở Khoa học và Công nghệ TP. Cần Thơ

Email: tinna@ntt.edu.vn

Tóm tắt

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế của các tỉnh, thành phố trên cả nước. Tỉnh Bến Tre là địa phương có nhiều lợi thế về nông sản, đặc biệt là các sản phẩm chế biến từ dừa, thủy sản. Bài viết khái quát kết quả đạt được về xuất khẩu hàng hóa và chỉ ra một số khó khăn và thách thức, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn trong hoạt động xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Bến Tre.

Từ khóa: xuất khẩu hàng hóa, Bến Tre, điểm nghẽn xuất khẩu, thị trường

Summary

In the context of increasingly deep international economic integration, export plays a crucial role in promoting the economic development of provinces and cities across the country. Ben Tre Province is a locality with many advantages in agricultural products, notably processed products from coconut and seafood. The article summarizes the results achieved in exporting goods and points out some difficulties and challenges, thereby proposing several solutions to remove bottlenecks in export activities in Ben Tre Province.

Keywords: export of goods, Ben Tre, export bottlenecks, market

ĐẶT VẤN ĐỀ

Mặc dù tỉnh Bến Tre đã đạt được những kết quả tích cực trong hoạt động xuất khẩu, với kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng ổn định và đa dạng hóa các mặt hàng chủ lực, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều điểm nghẽn cần giải quyết. Những điểm nghẽn này không chỉ hạn chế sự phát triển của ngành xuất khẩu mà còn làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa Bến Tre trên các thị trường quốc tế. Các yếu tố như sự manh mún trong sản xuất nông nghiệp, hạn chế trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu, cơ sở hạ tầng giao thông còn yếu kém, và nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu đã tạo nên những thách thức lớn cho hoạt động xuất khẩu của tỉnh. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường quốc tế, việc tìm ra và giải quyết các điểm nghẽn này là yêu cầu cấp bách để thúc đẩy xuất khẩu của tỉnh Bến Tre. Chính vì vậy, việc đưa ra các giải pháp chiến lược nhằm tháo gỡ những rào cản này không chỉ giúp tăng trưởng xuất khẩu mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế tỉnh nhà.

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA TỈNH BẾN TRE

Trong giai đoạn 2021-2024, hoạt động xuất khẩu của tỉnh Bến Tre đã đạt được những kết quả khả quan và tích cực. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Tỉnh trong khoảng thời gian này đạt 5.845 triệu USD, với mức tăng trưởng bình quân 4,36%/năm (Sở Công Thương Bến Tre, 2024). Đây là một dấu hiệu rõ rệt cho sự nỗ lực không ngừng của các cơ quan chức năng, doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân trong việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Thành tựu này đã giúp tỉnh Bến Tre đứng thứ 6 trong 13 tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long về kim ngạch xuất khẩu năm 2023, đóng góp khoảng 6%-7% vào tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn Vùng. Năm 2024, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu của tỉnh vượt mốc 1,75 tỷ USD, tăng trưởng hơn 20% so với năm 2023, đứng thứ 3 ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt, trong tổng kim ngạch xuất khẩu, mặt hàng dừa đóng vai trò nổi bật, với giá trị xuất khẩu đạt trên 516 triệu USD (Nhật Trường, 2025). Thành tích này thể hiện sự ổn định và phát triển của ngành xuất khẩu tại Bến Tre trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang phải đối mặt với nhiều thách thức.

Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Tỉnh chủ yếu là các sản phẩm từ dừa, thủy sản và nông sản chế biến. Trong đó, sản phẩm dừa, một đặc sản nổi tiếng của Bến Tre, tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu xuất khẩu của Tỉnh. Các sản phẩm từ dừa như dầu dừa tinh khiết, nước cốt dừa đóng lon, và than hoạt tính đã đạt được mức tăng trưởng ấn tượng, không chỉ về sản lượng mà còn về giá trị gia tăng. Bên cạnh đó, các mặt hàng thủy sản chế biến và nông sản cũng đóng góp một phần quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Đặc biệt, cơ cấu hàng xuất khẩu của Bến Tre đã có sự chuyển biến mạnh mẽ theo hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp chế biến sâu và có hàm lượng công nghệ cao. Các sản phẩm này không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn có khả năng cạnh tranh tốt trên các thị trường quốc tế. Cụ thể như, sản phẩm điện tử và linh kiện xuất khẩu của Bến Tre đã tăng trưởng 14,87%/năm, túi xách da tăng 13,19%/năm, và nước dừa đóng lon cũng đạt mức tăng trưởng 6,84%/năm. Những con số này phản ánh sự cải thiện trong chất lượng sản phẩm và sự nâng cao giá trị gia tăng của các mặt hàng xuất khẩu của tỉnh, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế (Ngô Anh Tín và cộng sự, 2025). Ngoài các mặt hàng truyền thống, Bến Tre cũng đã nỗ lực phát triển các sản phẩm mới, đặc biệt là những sản phẩm có giá trị gia tăng cao và công nghệ chế biến tiên tiến, như sản phẩm từ dừa đạt chứng nhận hữu cơ và các sản phẩm chế biến từ thủy sản. Đây là những bước đi quan trọng nhằm tạo nền tảng vững chắc để Bến Tre không chỉ duy trì mà còn mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng trưởng bền vững trong thời gian tới.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, hoạt động xuất khẩu của Bến Tre vẫn đối mặt với nhiều thách thức và hạn chế, đặc biệt là những điểm nghẽn ảnh hưởng đến khả năng phát triển bền vững và mở rộng quy mô xuất khẩu trong tương lai. Các điểm nghẽn này chủ yếu xuất phát từ một số yếu tố như sự phụ thuộc vào thị trường trung gian, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu chưa đồng đều, các vấn đề về cơ sở hạ tầng và logistics, và sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao. Cụ thể là:

Một là, phụ thuộc vào thị trường trung gian và thiếu thị trường mới. Mặc dù xuất khẩu của Bến Tre đã mở rộng ra hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, song thị trường xuất khẩu của tỉnh vẫn còn phụ thuộc vào các thị trường trung gian, tức là các quốc gia không phải là người tiêu dùng cuối cùng mà chủ yếu đóng vai trò là đầu mối trung chuyển hàng hóa. Điều này khiến cho Bến Tre chưa tận dụng được tối đa các cơ hội trực tiếp từ các thị trường tiềm năng và hạn chế việc xây dựng các mối quan hệ bền vững với các thị trường tiêu thụ chính. Thị trường xuất khẩu của Tỉnh chưa thật sự đa dạng, thiếu sự chủ động trong việc khai thác và mở rộng thị trường mới, đặc biệt là các thị trường khó tính như châu Âu và châu Mỹ.

Hai là, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm công nghiệp gia công. Một trong những điểm nghẽn lớn trong hoạt động xuất khẩu của Bến Tre là tỷ lệ sản phẩm công nghiệp gia công chiếm phần lớn trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Điều này dẫn đến giá trị gia tăng thấp, hạn chế khả năng cạnh tranh lâu dài của sản phẩm trên các thị trường quốc tế. Dù một số sản phẩm như dầu dừa tinh khiết và nước cốt dừa đóng lon đã có sự gia tăng về giá trị gia tăng và chuyển dịch mạnh mẽ về chất lượng, nhưng vẫn còn quá nhiều sản phẩm chưa qua chế biến sâu, chủ yếu là nguyên liệu thô hoặc sản phẩm chế biến đơn giản, dễ bị cạnh tranh giá rẻ từ các quốc gia khác.

Ba là, sản xuất nông nghiệp manh mún và thiếu liên kết chuỗi giá trị. Phần lớn sản xuất nông nghiệp của tỉnh Bến Tre vẫn theo mô hình hộ gia đình nhỏ lẻ và thiếu sự liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn. Điều này dẫn đến việc thiếu kiểm soát trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạn chế khả năng áp dụng công nghệ tiên tiến trong chế biến, và ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu các mặt hàng nông sản chế biến sâu. Việc thiếu sự kết nối giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị cũng khiến cho tỉnh gặp khó khăn trong việc phát triển các sản phẩm có giá trị gia tăng cao và nâng cao khả năng cạnh tranh.

Bốn là, cơ sở hạ tầng giao thông và logistics chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chi phí xuất khẩu là cơ sở hạ tầng giao thông và logistics. Mặc dù Bến Tre là một tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi, nhưng hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vẫn còn thiếu đồng bộ và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Các tuyến đường giao thông huyết mạch chưa được nâng cấp và mở rộng kịp thời, đặc biệt là trong khu vực nông thôn và các khu vực sản xuất, dẫn đến chi phí vận chuyển cao và thời gian giao hàng kéo dài. Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu và hạn chế khả năng mở rộng thị trường (Đinh Thị Bích Liên, 2023).

Năm là, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Dù tỉnh Bến Tre đã có một số chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp xuất khẩu, song nhu cầu về nhân lực có kỹ năng chuyên môn cao, đặc biệt trong các lĩnh vực quản lý chuỗi cung ứng, logistics, và công nghệ chế biến vẫn còn rất lớn. Việc thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao là một yếu tố cản trở quá trình nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm và mở rộng quy mô xuất khẩu. Các doanh nghiệp xuất khẩu gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động có trình độ, tay nghề cao, điều này dẫn đến năng suất lao động thấp và khó khăn trong việc cải thiện chất lượng sản phẩm xuất khẩu.

Sáu là, thiếu sự hỗ trợ mạnh mẽ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của tỉnh, nhưng phần lớn trong số họ gặp phải nhiều khó khăn về tài chính, tiếp cận công nghệ và hỗ trợ từ các chính sách của nhà nước. Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường thiếu khả năng tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu hoặc chưa đủ tiềm lực để triển khai các chiến lược xúc tiến thương mại hiệu quả. Những rào cản này khiến cho khả năng mở rộng xuất khẩu của các doanh nghiệp này bị hạn chế.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Nhằm tháo gỡ điểm nghẽn thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa tỉnh Bến Tre, theo tác giả, cần triển khai một loạt các giải pháp chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu, đồng thời khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế so sánh của tỉnh. Các giải pháp này sẽ tập trung vào việc cải thiện cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, mở rộng thị trường, phát triển hạ tầng logistics, và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Thứ nhất, phát triển chuỗi giá trị sản phẩm nông sản chủ lực. Một trong những giải pháp quan trọng nhất là phát triển các chuỗi giá trị cho các sản phẩm chủ lực như dừa, thủy sản và nông sản chế biến. Việc liên kết chặt chẽ giữa các nông hộ, hợp tác xã và các doanh nghiệp chế biến sẽ giúp nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm thiểu tình trạng sản xuất manh mún, thiếu tính đồng bộ. Tỉnh cần khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng các mô hình liên kết chuỗi giá trị, từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ, để tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, phù hợp với nhu cầu thị trường quốc tế.

Thứ hai, tăng cường ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số trong sản xuất và chế biến. Tỉnh Bến Tre cần thúc đẩy mạnh mẽ việc áp dụng công nghệ cao vào sản xuất, chế biến và bảo quản sản phẩm. Các công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, nông sản sẽ giúp cải thiện chất lượng sản phẩm, kéo dài thời gian bảo quản, và giảm tổn thất sau thu hoạch. Đồng thời, tỉnh cũng cần đẩy mạnh chuyển đổi số trong các doanh nghiệp, đặc biệt là trong việc áp dụng các công cụ thương mại điện tử và sàn giao dịch trực tuyến để quảng bá sản phẩm, tiếp cận khách hàng và mở rộng thị trường.

Thứ ba, mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Để giảm sự phụ thuộc vào các thị trường trung gian, tỉnh cần xây dựng chiến lược mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tập trung vào các thị trường khó tính, như: châu Âu, Bắc Mỹ, và các thị trường tiềm năng ở khu vực châu Á. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tham gia vào các hội chợ quốc tế, và phát triển các chiến dịch quảng bá đặc sản Bến Tre thông qua các kênh truyền thông, mạng xã hội và thương mại điện tử.

Thứ tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông và phát triển logistics. Để giảm chi phí vận chuyển và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, tỉnh Bến Tre cần tập trung vào việc nâng cấp và phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, đặc biệt là các tuyến đường giao thông huyết mạch, cảng biển, và trung tâm logistics. Đầu tư vào các cảng biển nước sâu, xây dựng các trung tâm logistics hiện đại sẽ giúp cải thiện khả năng vận chuyển, giảm chi phí và thời gian giao hàng, đồng thời thúc đẩy sự kết nối giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Thứ năm, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các doanh nghiệp trong việc xuất khẩu hàng hóa, tỉnh Bến Tre cần đẩy mạnh các chương trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Các trường đại học, viện nghiên cứu cần hợp tác với doanh nghiệp để đào tạo các kỹ năng chuyên môn trong lĩnh vực quản lý chuỗi cung ứng, logistics, và công nghệ chế biến. Đồng thời, tỉnh cũng cần tạo điều kiện thuận lợi để thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao từ các địa phương khác đến làm việc tại Bến Tre.

Thứ sáu, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan trọng trong ngành xuất khẩu của tỉnh, tuy nhiên họ đang gặp nhiều khó khăn về tài chính, công nghệ và nguồn nhân lực. Tỉnh cần tạo ra các chính sách hỗ trợ như tiếp cận vốn vay ưu đãi, hỗ trợ về công nghệ, xúc tiến thương mại và xây dựng các chương trình đào tạo doanh nghiệp. Việc này sẽ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp SMEs và mở rộng khả năng xuất khẩu ra các thị trường quốc tế.

Thứ bảy, khuyến khích hình thức đối tác công – tư (PPP) và thu hút đầu tư. Tỉnh Bến Tre cần khuyến khích PPP trong việc phát triển các dự án cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông và logistics. Ngoài ra, tỉnh cũng cần thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào các dự án chế biến sâu các sản phẩm nông sản, nhằm tăng cường năng lực chế biến và xuất khẩu hàng hóa có giá trị gia tăng cao.

Thứ tám, cải thiện môi trường pháp lý và giảm thủ tục hành chính. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, tỉnh Bến Tre cần tiếp tục cải cách hành chính, giảm thiểu thủ tục hành chính, và tạo ra một môi trường pháp lý ổn định và minh bạch. Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu dễ dàng hơn trong việc thực hiện các thủ tục liên quan đến thuế, hải quan, và các giấy phép xuất khẩu./.

Tài liệu tham khảo

1. Đinh Thị Bích Liên (2023), Một số giải pháp thúc đẩy tăng trưởng bền vững hoạt động xuất nhập khẩu của tỉnh Bến Tre, truy cập từ https://vioit.moit.gov.vn/vn/quy-hoach/dia-phuong/mot-so-giai-phap-thuc-day-tang-truong-ben-vung-hoat-dong-xuat-nhap-khau-cua-tinh-ben-tre-5372.4102.html.

2. Ngô Anh Tín và cộng sự (2025), Thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh Bến Tre, truy cập từ https://kinhtevadubao.vn/thuc-day-xuat-khau-hang-hoa-gop-phan-thuc-day-tang-truong-kinh-te-tinh-ben-tre-30992.html.

3. Nhật Trường (2025), Bến Tre tìm đường xuất khẩu nông sản đạt mức gần 2 tỷ USD, truy cập từ https://ttdn.vn/hoi-nhap-va-phat-trien/kinh-te-dau-tu/ben-tre-tim-duong-xuat-khau-nong-san-dat-muc-gan-2-ty-usd-114243.

4. Sở Công Thương tỉnh Bến Tre (2024), Đánh giá thực trạng và các điểm nghẽn trong hoạt động xuất khẩu tỉnh Bến Tre, truy cập từ https://congthuongbentre.gov.vn/danh-gia-thuc-trang-va-cac-diem-nghen-trong-hoat-dong-xuat-khau-tinh-ben-tre.html.

5. UBND tỉnh Bến Tre (2023), Kế hoạch số 3206/KH-UBND, ngày 02/6/2023 về việc thực hiện chiến lược xuất - nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Bến Tre.

Ngày nhận bài: 18/02/2025; Ngày phản biện: 25/2/2025; Ngày duyệt đăng: 15/3/2025