RCEP - KẾT NỐI KHU VỰC ĐÔNG NAM Á VÀ CÁC NƯỚC LÁNG GIỀNG LỚN MẠNH

RCEP bao gồm 10 quốc gia ASEAN và 5 nước đối tác của ASEAN là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand được ký kết vào ngày 15/11/2020 sau 8 năm đàm phán. Hiệp định sẽ hợp nhất hơn 2,2 tỷ người, với GDP 26,2 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu và sẽ trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới (Bộ Công Thương, 2021).

RCEP kết nối khu vực Đông Nam Á với các nước láng giềng lớn mạnh và có tầm ảnh hưởng nhất. FTA này không chỉ bao hàm các sản phẩm nông nghiệp hay các mặt hàng sản xuất và lắp ráp, mà còn cả các dịch vụ và lĩnh vực thương mại điện tử. RCEP sẽ tiếp nối các FTA mà ASEAN đang triển khai hiện nay, đồng thời, mở rộng nguyên tắc đối xử tối huệ quốc trên phạm vi 15 quốc gia. Nguyên tắc này là cơ sở đàm phán được Tổ chức Thương mại Thế giới ủng hộ và quy định rằng, mỗi quốc gia thành viên phải bảo đảm dành chế độ ưu đãi thuận lợi cho tất cả các quốc gia đối tác như nhau.

Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực - Cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam
RCEP đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam và mang lại các lợi ích cả trong ngắn hạn cũng như dài hạn.

Đối với Việt Nam, việc ký kết RCEP đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam và mang lại các lợi ích cả trong ngắn hạn cũng như dài hạn. RCEP khi được thực thi ngoài việc tạo nên một thị trường lớn, thì Việt Nam và các nước đối tác sẽ xóa bỏ thuế quan đối với ít nhất 64% số dòng thuế ngay khi hiệp định có hiệu lực. Đến cuối lộ trình sau 15-20 năm, Việt Nam sẽ xóa bỏ thuế quan với khoảng 85,6%-89,6% số dòng thuế với các nước đối tác, trong khi các nước đối tác xóa bỏ thuế quan cho Việt Nam khoảng 90,7%-92% số dòng thuế (Khánh An, 2020). Hiệp định có hiệu lực từ ngày 01/01/2022 sẽ hứa hẹn mang đến nhiều cơ hội, song cũng không ít thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam.

CƠ HỘI SONG HÀNH CÙNG THÁCH THỨC

Cơ hội

Thứ nhất, ngay khi RCEP có hiệu lực sẽ tạo nên một khuôn khổ ràng buộc pháp lý trong khu vực về chính sách thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp... góp phần xây dựng môi trường thương mại công bằng trong khu vực. Theo một số nghiên cứu, việc Việt Nam chủ động cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng sẽ đem lại giá trị cho nền kinh tế Việt Nam còn cao hơn so với các lợi ích mở cửa thị trường trực tiếp của các nước, làm cho Việt Nam có cơ hội trở thành một điểm đến đáng tin cậy cho các nhà đầu tư quốc tế về lâu dài.

Thứ hai, đối với các doanh nghiệp Việt Nam, khi RCEP được thực thi, việc tiếp cận thị trường sẽ mang tính bền vững hơn, không có sự cạnh tranh mang tính bất bình thường. Việc mở của thị trường mang tính sâu hơn, rộng hơn, đảm bảo cho các doanh nghiệp Việt Nam được quyền tham gia vào thị trường các quốc gia trong khu vực kể cả dưới góc độ thương mại cũng như đầu tư. Do đó, sẽ làm tăng khả năng tiếp cận thị trường xuất khẩu và nhập khẩu đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Về cơ bản sẽ không tạo ra cam kết mở cửa thị trường hay áp lực cạnh tranh mới, mà chủ yếu hướng đến tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chẳng hạn, doanh nghiệp sẽ chỉ phải sử dụng 1 quy tắc xuất xứ thay vì 5 bộ quy tắc xuất xứ riêng ở các FTA trước đây. Lượng hàng hóa luân chuyển trong RCEP rất lớn sẽ tạo ra khu vực thị trường rộng lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Tương tự, nếu như trước đây, khi có tranh chấp thương mại với một đối tác lớn, thì các nước ASEAN cũng khó giải quyết hơn. Tuy nhiên, lúc RCEP được thực thi, theo một cơ chế mang tính đa phương với cả 15 nước tham gia, thì các quy tắc thương mại sẽ được tuân thủ triệt để hơn.

Thứ ba, RCEP sẽ giúp thiết lập thị trường xuất khẩu ổn định dài hạn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Theo đó, RCEP cũng sẽ mở thêm cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia các chuỗi giá trị và sản xuất mới trong khu vực; đồng thời, giúp Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp chế biến, may mặc... vào thị trường các nước thành viên, do quy trình xuất, nhập khẩu được đơn giản hóa sẽ giảm thời gian, chi phí cho các doanh nghiệp Việt; tăng tỷ suất lợi nhuận và sức cạnh tranh tại các thị trường trong khối RCEP, góp phần thực hiện chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng xuất khẩu của Việt Nam. Nhờ vào việc hài hòa quy tắc xuất xứ nội khối RCEP, hàng hóa xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam có thể tăng khả năng đáp ứng điều kiện để hưởng ưu đãi thuế quan; từ đó, gia tăng xuất khẩu trong khu vực, nhất là ở các thị trường, như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand...

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ tiếp cận thuận lợi hơn với nguồn nguyên liệu, phục vụ chuỗi sản xuất các mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu, do RCEP cho phép các nước thành viên áp dụng nguyên tắc cộng gộp nguyên liệu có xuất xứ trong toàn khối. Chẳng hạn, Việt Nam có thể nhập khẩu chip điện tử từ Nhật Bản, Hàn Quốc; nhập nguyên liệu dệt may từ Trung Quốc để sản xuất trong nước và xuất khẩu đi nước khác.

Thứ tư, RCEP cũng đem lại cho Việt Nam một thị trường có sức sống, kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ với nhu cầu tiêu dùng lớn, mà đòi hỏi không quá cao về chất lượng sản phẩm như khi tham gia vào Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) hay Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA). Hiện, các thị trường trong khối RCEP đang bao trùm gần như toàn bộ chuỗi sản xuất của nhiều loại hàng Việt Nam, như: sản phẩm điện tử, dệt may, giầy dép, thực phẩm chế biến… Đây là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng hơn nữa thị trường, thúc đẩy tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp tới thị trường các nước thành viên RCEP.

Cùng với việc mở ra một thị trường tiêu thụ rộng lớn, RCEP cũng sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam giảm chi phí giao dịch, tạo dựng môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, thân thiện hơn nhờ hài hòa các quy định hiện hành, áp dụng các quy định trong khuôn khổ các FTA khác nhau của ASEAN. Đồng thời, góp phần tăng cường hợp tác kỹ thuật và vị thế của Việt Nam trong giải quyết tranh chấp về thương mại và đầu tư.

Thách thức

Bên cạnh những mặt thuận lợi, RCEP cũng mang tới những thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam. Có thể kể đến như sau:

- Thách thức về năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các nước trong RCEP. Nhiều đối tác trong RCEP có cơ cấu sản phẩm tương tự Việt Nam, nhưng năng lực cạnh tranh mạnh hơn, trong khi đó, chất lượng, hàm lượng giá trị gia tăng của hầu hết các sản phẩm của Việt Nam còn khiêm tốn. Thêm vào đó, các doanh nghiệp Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu, phụ liệu nhập khẩu từ bên ngoài. Ngoài ra, cam kết trong RCEP cũng buộc nhiều nước trong Khối cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa Trung Quốc. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam không những buộc phải cạnh tranh tại thị trường trong nước với một loạt hàng hóa mới có giá thành thấp hơn từ Trung Quốc, Hàn Quốc và nhiều nước ASEAN, mà còn phải cạnh tranh với hàng hóa của Trung Quốc tại thị trường các nước thành viên RCEP. Một số ngành sẽ bị ảnh hưởng bởi việc cắt giảm thuế quan này.

- Thách thức trong việc thực hiện hợp đồng. Thực tế cho thấy, năng lực thực hiện hợp đồng của các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn. Trong quá trình thực hiện, có thể do những điều kiện khách quan ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng, khi đó, nếu hợp đồng nào được soạn thảo chu đáo, phân định rõ trách nhiệm của các bên, lường trước được các tình huống có thể xảy ra và đưa được vào trong hợp đồng, thì việc thực hiện sẽ trôi chảy hơn. Còn những hợp đồng nào sơ sài, không lường trước được tình huống như vậy, thì sẽ dẫn đến tình trạng tranh chấp. Tuy nhiên, hiện nay, việc trang bị kiến thức luật pháp quốc tế, kinh nghiệm tham gia và xử lý các vụ tranh chấp đối với các doanh nghiệp Việt còn rất hạn chế, doanh nghiệp trong nước chưa chủ động nắm bắt và chuẩn bị trước về các tác động bất lợi do RCEP gây ra, nhất là việc gia tăng cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa.

- Cơ hội thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ chuyên nghiệp sang các nước RCEP khá hạn chế, do chênh lệch về nguồn nhân lực giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các nước trong RCEP. Bên cạnh đó, các dịch vụ ngân hàng sẽ phải đối mặt với cạnh tranh khốc liệt từ các nước RCEP, điểm yếu chính của dịch vụ tài chính Việt Nam là chất lượng dịch vụ, thương hiệu và uy tín, kinh nghiệm, trình độ quản lý, áp dụng công nghệ tại các tổ chức tài chính đều còn hạn chế.

- Hiện nay, các doanh nghiệp chưa biết đến hoặc chưa hiểu rõ về các cam kết FTA, trong đó có RCEP. Thực tế thực hiện 14 FTA đã có hiệu lực của Việt Nam cho thấy, một trong những lý do mà nhiều cơ hội FTA đã bị bỏ lỡ là do các doanh nghiệp chưa biết đến hoặc chưa hiểu rõ về các cam kết FTA. Theo một khảo sát của VCCI năm 2020, tỷ lệ hiểu biết ở mức tương đối về các cam kết FTA của các doanh nghiệp Việt Nam trung bình chỉ đạt 23%. Các cam kết FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới như RCEP thường không dễ tìm hiểu do số lượng các cam kết đồ sộ, nội dung phức tạp (Hương Loan, 2021).

MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể nắm bắt tối đa cơ hội, vượt qua thách thức từ RCEP, trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Về phía nhà nước

Việt Nam cần cải cách môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia để mang đến môi trường kinh doanh minh bạch, ổn định giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp Việt trong quá trình kinh doanh. Đồng thời, đẩy nhanh tiến độ thành lập quỹ FTA nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực chịu tác động mạnh từ các FTA, trong đó có RCEP; triển khai xây dựng đề án, kế hoạch truyền thông về các điều khoản cụ thể của RCEP để các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng tốt nhất, nhanh nhất khi RCEP chính thức có hiệu lực.

Cùng với việc công khai hóa toàn bộ văn bản của RCEP trên các phương tiện thông tin đại chúng, các bộ, ngành cần tổ chức hội nghị, hội thảo, chuỗi tập huấn cho các doanh nghiệp để tìm hiểu, nắm rõ về RCEP. Bên cạnh đó, việc các cơ quan thương vụ và các trung tâm xúc tiến thương mại ở nước ngoài đẩy mạnh phối hợp thực hiện đồng bộ, chặt chẽ để giúp đỡ các doanh nghiệp có thể tranh thủ khai thác các thị trường của Việt Nam nói chung và RCEP nói riêng, cũng đóng vai trò hết sức quan trọng.

Về phía doanh nghiệp

Một là, về xuất khẩu hàng hóa, các doanh nghiệp cần quan tâm đến lộ trình cắt giảm và xóa bỏ thuế quan đối với hàng hóa của Việt Nam và của các nước tham gia RCEP, quy tắc xuất xứ của Hiệp định, các quy định về vệ sinh kiểm dịch, rào cản kỹ thuật… Đây là sự chuẩn bị cần thiết cho các mặt hàng của Việt Nam có khả năng xuất khẩu sang nước khác, các dịch vụ có khả năng vươn ra thị trường thế giới.

Hai là, xem xét, nắm rõ việc cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, các quy định về thủ tục hải quan và thuận lợi hóa thương mại của các nước khác trong RCEP; từ đó, củng cố thị trường trong nước, nâng cao chất lượng hàng hóa, nhận diện thương hiệu chuẩn xác; xây dựng kế hoạch mở cửa thị trường đối với những mặt hàng có lợi thế.

Ba là, thay đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh mới, lấy sức ép về cạnh tranh là động lực để đổi mới và phát triển. RCEP sẽ mang lại cơ hội cho doanh nghiệp nào chủ động đáp ứng với những thay đổi về môi trường kinh doanh do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại thông qua việc xây dựng và điều chỉnh kế hoạch kinh doanh cho giai đoạn trung hạn và dài hạn nhằm thúc đẩy dòng chảy của hàng hóa và dịch vụ vào các thị trường đối tác tiềm năng.

Bốn là, chủ động tìm hướng hợp tác với các thị trường đối tác của RCEP để thu hút mạnh mẽ nguồn vốn FDI vào Việt Nam nhằm tận dụng hiệu quả nguồn vốn và việc chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn lớn, giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia sâu hơn nữa vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu./.

Tài liệu tham khảo

1. Khánh An (2020). Hiệp định RCEP - cơ hội và thách thức, truy cập từ https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/hiep-dinh-rcep-co-hoi-va-thach-thuc-647627

2. Bộ Công Thương (2021). Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) có hiệu lực từ ngày 01/01/2022, truy cập từ https://moit.gov.vn/tin-tuc/thi-truong-nuoc-ngoai/hiep-dinh-doi-tac-kinh-te-toan-dien-khu-vuc-rcep-co-hieu-luc-tu-ngay-01-thang-01-nam-2022.html

3. Hương Loan (2021). Để không lỡ những cơ hội từ “cuộc hẹn” RCEP, truy cập từ https://vneconomy.vn/de-khong-lo-nhung-co-hoi-tu-cuoc-hen-rcep.htm

Đỗ Văn Thắng

Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP. Hồ Chí Minh

(Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 35, tháng 12/2021)