Nhận diện các vấn đề trọng tâm trong quá trình cải cách đến năm 2025
Hội thảo tham vấn cấp cao “Cải cách hướng tới phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế: Trọng tâm và lộ trình đến năm 2025” vừa được Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức sáng nay, 29-10 tại Hà Nội với sự hỗ trợ từ Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform).
Hội thảo nhằm (i) nhìn nhận yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam trong giai đoạn 2021-2025; và (ii) xác định những nội dung, vấn đề cải cách cần ưu tiên ở Việt Nam trong giai đoạn 2021-2025.
TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM chỉ rõ, bối cảnh kinh tế trong năm 2021 không hề dễ dàng đối với Việt Nam |
Năm 2021, bối cảnh kinh tế không dễ dàng với Việt Nam
Phát biểu khai mạc hội thảo, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM chỉ rõ, bối cảnh kinh tế trong năm 2021 không hề dễ dàng đối với Việt Nam.
Kể từ đầu năm 2021, bối cảnh kinh tế thế giới liên tục có những diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường do dịch bệnh COVID-19. Trong nước, diễn biến dịch COVID-19 kéo dài - nhất là từ cuối tháng 4/2021 đến tháng 9/2021 khiến nhiều địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề phải duy trì các biện pháp giãn cách xã hội và hạn chế đi lại.
Nhiều rủi ro ảnh hưởng đến đà phục hồi tăng trưởng kinh tế được nhìn nhận, trong đó bao gồm cạnh tranh địa chính trị, căng thẳng thương mại và những rủi ro liên quan đến ổn định kinh tế vĩ mô.
Trước những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19, Chính phủ vẫn ưu tiên bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định xã hội. Một mặt, Chính phủ đã chủ động cân nhắc, tham vấn cộng đồng doanh nghiệp để có những quyết sách, nỗ lực giữ đà cải cách thể chế kinh tế ngay cả trong giai đoạn khó khăn. Mặt khác, Chính phủ đã hiện thực hóa nhiều biện pháp thuế, tín dụng, trợ cấp cho người lao động… để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, trên tinh thần đơn giản hóa điều kiện và rút ngắn thời gian tiếp cận để các nhóm này giảm bớt khó khăn do dịch bệnh. Sự quyết liệt với cải cách của Việt Nam cũng được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Việt Nam đã nổi lên là một hình mẫu về cải cách thể chế kinh tế ở khu vực.
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn phải đối mặt với những khó khăn, thách thức. Ở bên ngoài, các thị trường xuất khẩu sử dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm hạn chế hàng hóa nhập khẩu, trong đó có hàng hóa Việt Nam. Rủi ro gián đoạn chuỗi cung ứng cũng làm tăng chi phí đáng kể cho doanh nghiệp xuất khẩu cũng như doanh nghiệp hoạt động thương mại trong nước.
Ở trong nước, dịch bệnh COVID-19 cũng làm trầm trọng hóa những vấn đề cố hữu của Việt Nam trong những năm qua, chẳng hạn như phối hợp, liên kết giữa các địa phương nhằm phát huy lợi thế kinh tế của vùng, hay giải ngân đầu tư công chậm.
“Đây là năm thứ hai chúng ta phải đối phó với dịch bệnh Covid-19, nhưng diễn biến vẫn còn rất phức tạp. Những cụm từ như “lúng túng”, “chưa từng có tiền lệ”… không phải là hiếm thấy”, bà Minh nói.
Ông Aedan Puleston, Thư ký thứ hai, Đại sứ quán Úc tại Việt Nam phát biểu tại Hội thảo |
Bà Minh cũng chỉ rõ, nhiều cải cách đang có dấu hiệu “chạm trần”, thiếu cách làm mới để tạo đột phá. Bên cạnh đó, dù có nhiều nỗ lực cải thiện, công tác điều hành và chất lượng các văn bản chính sách hỗ trợ nền kinh tế, người dân và doanh nghiệp vẫn còn hạn chế, bất cập.
Một số biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế như miễn, giảm, giãn, hoãn thuế, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi, phí… chưa đủ “sức nặng” cần thiết để hỗ trợ doanh nghiệp; hay một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động vừa đi vào thực hiện đã phải sửa đổi.
5 câu hỏi cần giải đáp trong trọng tâm và lộ trình cải cách đến năm 2025
Trong bối cảnh ấy, theo người đứng đầu CIEM, tư duy về đổi mới quốc gia theo hướng hiện đại lại càng cần thiết, để hỗ trợ cho cải cách, giúp chúng ta tránh được tình trạng “làm nhiều, làm liên tục nhưng hiệu quả cải cách lại chưa tương xứng với yêu cầu và kỳ vọng”.
“Với góc nhìn như vậy, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và cá nhân tôi luôn tâm niệm, phải xác định và kiên trì thực hiện những cải cách đủ trọng tâm, đủ dài hơi và đủ thực chất”, bà Minh chia sẻ quan điểm.
Đồng tình với bà Minh, ông Aedan Puleston, Thư ký thứ hai, Đại sứ quán Úc tại Việt Nam chia sẻ thông tin rằng, việc vô cùng quan trọng hiện nay giữa 2 chính phủ, Úc và Việt Nam, là giúp nhau phục hồi sau dịch bệnh. Ông cho rằng, Việt Nam cần tiếp tục cải cách, cần tiếp tục phát triển. Theo đó, cần chú trọng vào phát triển nền kinh tế số, chuyển đổi số.
Cũng tại Hội thảo, thay mặt nhóm nghiên cứu, trình bày báo cáo đề dẫn, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp (CIEM) đã đưa ra 5 vấn đề lớn Việt Nam cần lưu ý để đẩy mạnh quá trình phục hồi và cải cách nền kinh tế, hướng tới phát triển bền vững trong giai đoạn 2021-2025.
Thứ nhất, trong bối cảnh tăng trưởng chậm, nhiều ý kiến, thảo luận chính sách tập trung hơn vào yêu cầu sử dụng các công cụ chính sách vĩ mô (tài khóa, tiền tệ) để hỗ trợ nền kinh tế.
“Tuy nhiên, tương tác giữa các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và cải cách thể chế kinh tế được đề cập rất ít, hoặc còn mờ nhạt. Một số cách nói nhấn mạnh trong thời gian gần đây hướng tới đề xuất gói kích thích tài khóa để hỗ trợ nền kinh tế liệu có gây ấn tượng, hoặc làm giảm sự quan tâm đối với cải cách thế chế kinh tế?”, ông Dương đặt câu hỏi.
Thứ hai, nguồn lực cho phục hồi và phát triển kinh tế là một nội dung quan trọng. Một câu hỏi quen thuộc đặt ra là: nguồn lực trong dân còn nhiều, cơ chế nào để tạo động lực cho người dân bỏ vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh? Vai trò của đầu tư công vẫn rất quan trọng, song làm thế nào để phát huy hiệu quả mà không gây ra tác động “chèn lấn” quá mức đối với đầu tư từ các nguồn khác?
“Vậy chúng ta sẽ lựa chọn theo cách thức nào để có cách thức hợp lý nhất”, ông Dương nêu câu hỏi?
Thứ ba, làm thế nào để mở ra không gian cho các hoạt động kinh tế mới một cách bền vững như kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ…? Làm thế nào để quyết tâm xây dựng chính sách đi kèm với nhận thức và quyết tâm thực hiện ở các bộ, ngành, địa phương? Đặc biệt, các hoạt động kinh tế mới cũng đặt ra không ít vấn đề chưa có tiền lệ, vậy thì phối hợp, “phân vai” giữa các bộ cần theo cách tiếp cận, nguyên tắc nào?
Ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp (CIEM) đã đưa ra 5 câu hỏi về nội dung trung tâm và lộ trình của cải cách đến năm 2025 |
Thứ tư, cho đến năm 2015, vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế trong việc thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế trong nước là khá rõ. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2016-2019, tương tác giữa hội nhập kinh tế quốc tế và cải cách thể chế kinh tế trong nước vẫn khá chặt chẽ, nhưng vai trò “thúc đẩy cải cách” của hội nhập kinh tế quốc tế có phần suy giảm.
Vậy, trong giai đoạn 2021-2025, làm thế nào để tạo động lực cho cải cách thể chế hướng tới thông lệ quốc tế tốt, trong bối cảnh hội nhập, phục hồi và phát triển bền vững là những yêu cầu lớn?
Cuối cùng, nâng cao năng lực nội tại của Việt Nam nói chung và khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam là rất cần thiết, song cần điều kiện gì để bảo đảm minh bạch, tránh gây méo mó về phân bổ nguồn lực?
“Đặc biệt, làm thế nào để bảo đảm doanh nghiệp Việt Nam quản trị hiệu quả hơn rủi ro trong chuỗi cung ứng nhất là giai đoạn sau Covid-19, đồng thời vẫn tăng cường năng lực để tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực?”, ông Dương tiếp tục đặt vấn đề.
Không cải cách thì không thể phục hồi được
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan lại lo ngại, dường như chúng ta đang tập trung quá nhiều vào Covid, trong khi những thiệt hại về người và vật chất do biến đổi khí hậu cũng rất lớn. Bà đề xuất rằng, các giải pháp nên được mở rộng và gắn với cả biến đổi khí hậu.
“Cải cách phải song song với phục hồi. Không cải cách thì không thể phục hồi được”, bà Lan lưu ý.
Vị chuyên gia này cũng cảnh báo, Covid-19 đang bộc lộ nhiều hạn chế trong quản trị quốc gia.
“Chúng ta không chỉ đứt gãy chuỗi cung ứng, mà đứt gãy trong phối hợp công việc; trong quan hệ làm việc giữa trung ương với địa phương. Nó vẫn tệ hại. Đứt gãy đó còn nghiêm trọng hơn đứt gãy chuỗi cung ứng. Nếu không khắc phục được thì không phục hồi được”, bà cảnh báo.
|
Bà cũng chỉ rõ, công tác thiết kế chính sách của chúng ta chưa ổn, chưa đủ minh bạch để thống nhất cách hiểu và thực hiện chính sách nhất quán ở mọi nơi, mọi cấp.
“Việc địa phương thực hiện theo cách hiểu của người ta là lỗi của thiết kế chính sách”. Bà nói và đề xuất, cần lưu ý hoàn thiện vấn đề này trong thời gian tới.
TS. Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nhận định, chất lượng văn bản pháp luật chưa cao, tính nhất quán còn thấp, sức sống và sức bền của chính sách cũng là điểm yếu, việc hướng dẫn chậm, trong khi việc thực thi chưa hiệu quả. Đây là điểm nghẽn cần xử lý trong giai đoạn tới.
Vị chuyên gia này thẳng thắn, chúng ta đã hô hào quá lâu rồi. “Nhân cơ hội này, Chính phủ nên cải cách về bộ máy”, ông nói. Cũng theo ông Lực, Việt Nam đã lỡ nhịp, vì thế nếu không quyết tâm cải cách quyết liệt, chúng ta sẽ bị tụt hậu.
Đồng tình với đánh giá Covid-19 mang đến những thách thức lớn nhưng cũng là cơ hội, PGS. TS. Lê Xuân Bá nêu quan điểm, cần phải nhìn lại rằng, trong thời gian qua, việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng chúng ta đã chưa làm được nhiều. Ông đề xuất, cần xem lại các giải pháp đang thực hiện, kiểm tra xem vướng ở đâu, để tiếp tục tháo gỡ. Ông cũng ủng hộ đẩy mạnh đầu tư công, nhưng nhấn mạnh rằng, không được đẩy mạnh bằng mọi giá.
“Trước hết, hãy cố gắng làm tốt những cái mà chúng ta đang làm”, TS. Lê Xuân Bá đề xuất.
Cần phục hồi xanh
Theo TS. Trần Thị Hồng Minh, trong thời gian tới, việc cần thiết là đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển công nghệ để tạo ra sức mạnh mới cho nền kinh tế. Cũng theo bà Minh, cần tư duy theo hướng mở rộng không gian kinh tế. Đây là vấn đề tương đối mới gắn liền với quy hoạch, với liên kết vùng, tiến trình xây dựng thể chế liên kết vùng cần khắc phục được khó khăn về quy hoạch, mở rộng cơ hội phát triển.
Ông Nguyễn Anh Dương cho rằng, xu thế hiện nay là phục hồi xanh. Song vấn đề đặt ra là phải trả lời câu hỏi chờ phục hồi xong mới chuyển sang tăng trưởng xanh hay gắn chuyển dịch sang tăng trưởng xanh với tiến trình phục hồi.
Ông cũng chỉ rõ, rủi ro với quá trình phục hồi tăng trưởng vẫn còn lớn. Cụ thể, diễn biến bệnh dịch còn rất phức tạp, cạnh tranh địa chính trị cũng rất phức tạp, chưa kể những rủi ro về ổn định kinh tế vĩ mô. Chẳng hạn, rủi ro lạm phát trong quá trình phục hồi, nhất là trong bối cảnh giá xăng dầu tăng rất nhanh, cộng với đó là các gói kích thích, chính sách tài khóa mở rộng.
|
TS. Võ Trí Thành cho rằng, mọi quyết sách đặt ra đều nhằm mục tiêu đưa nền kinh tế Việt Nam đến đích phát triển bền vững. Tuy nhiên, các giải pháp cải cách phải tạo ra được tác động cả ngắn hạn và dài hạn.
Thứ nhất, theo ông Thành, chúng ta cần tiếp tục thực hiện các giải pháp đang làm. Thứ hai, cần thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Thứ ba là phải đột phá trong tư duy và cách thức thực hiện.
Quan sát từ thực tế, TS. Võ Trí Thành cho biết, tiến trình chuyển đổi số hiện nay khác với trước. Nó có thể tạo điều kiện cho Việt Nam đi cùng chứ không phải chạy theo hay bắt kịp với khu vực.
“Quan trọng là phải thay đổi tư duy. Chúng ta không nên chỉ bó mình trong tư duy cũ, phải bỏ qua tư duy cũ. Chúng ta không thể nói là mình chỉ có thế, nếu chỉ có thế thì không không đột phá”, vị chuyên gia này khẳng định.
Ông Thành cũng chỉ rõ, các đầu mục cho cải cách chúng ta đã có hết trong những năm gần đây. Quan trọng là thực thi và thực hiện thế nào. Ông lưu ý, để có kinh tế số, chúng ta phải có cơ sở dữ liệu, phải xây dựng được luật về cơ sở dữ liệu.
Nhận định dịch COVID-19 tác động tiêu cực tới nền kinh tế trong thời gian qua và có thể kéo dài trong một vài năm tới, TS. Cấn Văn Lực nêu quan điểm, cần nhanh chóng khắc phục hậu quả do COVID-19 và đây là yếu tố đầu tiên muốn khôi phục và phát triển kinh tế. Theo đó, thực hiện chuyển đổi số và kỹ năng số; hệ thống mạng lưới an sinh xã hội an toàn cùng mức độ lành mạnh và sự chống chịu của hệ thống tài chính là những yêu cầu căn bản nhất.
TS. Cấn Văn Lực cho hay, những nước có khả năng điều chỉnh mô hình chống dịch phù hợp, có khả năng lập kế hoạch, phối hợp chính sách giữa y tế với kinh tế, ban hành cơ chế chính sách nhanh, nhất quán, họ không đang và sẽ vượt qua đại dịch một cách hiệu quả.
Cùng với đó, việc huy động và sử dụng nguồn lực cần luôn đặt tính hiệu quả lên đầu. TS. Cấn Văn Lực cũng kiến nghị, chính sách phát triển 5 năm tới cần không gian cho các hoạt động kinh tế mới, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả. Việt Nam đã rất thành công trong việc đàm phán, ký kết nhiều hiệp định thương mại với quốc tế, nên 5 năm tới việc cần làm là tận dụng ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới để phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực nội tại của nền kinh tế. Ông Lực khuyến nghị, các giải pháp cần đặt trọng tâm thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân, trên nền tư duy về tính độc lập, tự chủ của một nền kinh tế tự cường./.
Bình luận