Những thành tựu đạt được

Sau 20 năm xây dựng và phát triển, ngành Chứng khoán đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và đã đạt được những thành tựu to lớn, đáng tự hào, thể hiện trên một số nội dung sau:

Thứ nhất, đã tạo lập được một thể chế TTCK phù hợp với trình độ phát triển của nước ta; từng bước tiếp cận các chuẩn mực quốc tế và quá trình hội nhập quốc tế và khu vực.

Thứ hai, đã xây dựng và ngày càng hoàn thiện một hệ thống khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách từ Luật, nghị định cho đến các thông tư, quy chế, quy trình phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế đất nước.

Trong giai đoạn đầu, văn bản pháp lý cao nhất là Nghị định số 48/1988/NĐ-CP về chứng khoán và TTCK được Chính phủ ban hành ngày 11/07/1988, điều đó cho phép sớm có 1 khuôn khổ pháp lý ban đầu để khởi động thị trường, đồng thời bảo đảm được tính linh hoạt, dễ sửa đổi phù hợp với điều kiện ban đầu của TTCK.

Sau đó, ngày 28/11/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định 144/2003/NĐ-CP về về chứng khoán và TTCK, thay thế Nghị định 48/1988/NĐ-CP với nhiều nội dung đổi mới, phù hợp với thực tiễn phát triển của thị trường. Đến năm 2007, Luật Chứng khoán đầu tiên có hiệu lực và năm 2011 Luật Chứng khoán bổ sung và sửa đổi được áp dụng.

Nhiều đề án quan trọng đã được xây dựng và trình Thủ tướng ban hành như Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam giai đoạn 2011–2020; mô hình tổng thể TTCK; đề án quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài; đề án chống khủng hoảng; đề án tái cấu trúc TTCK...

Sau 20 năm xây dựng và phát triển, ngành Chứng khoán đã vượt qua nhiều khó khăn để phát triển

Đến nay, khung pháp lý đã được xây dựng đồng bộ cho hệ thống cấu trúc thị trường từ thị trường sơ cấp cho đến thị trường bậc cao là TTCK phái sinh, góp phần tăng cường tính công khai minh bạch của thị trường, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát và cưỡng chế thực thi của cơ quan quản lý; từng bước phù hợp với hệ thống luật pháp và thông lệ quốc tế, tạo nền tảng cho TTCK Việt Nam có khả năng hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và khu vực.

Thứ ba, TTCK trở thành kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế. Tổng giá trị vốn huy động qua TTCK từ khi khai trương hoạt động đến nay đã đạt trên 2 triệu tỷ đồng (trong đó giai đoạn 2011 đến nay, mức huy động vốn qua TTCK đã đạt 1,5 triệu tỷ đồng, tăng gấp 5,2 lần so với giai đoạn 2005-2010), đóng góp bình quân 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tương đương gần 60% so với nguồn cung vốn tín dụng thông qua hệ thống ngân hàng.

Đặc biệt, TTCK ra đời đã tạo điều kiện thuận lợi cho Chính phủ, các doanh nghiệp huy động vốn cho đầu tư phát triển và mở rộng sản xuất, kinh doanh, trở thành kênh phân phối chính của hoạt động phát hành trái phiếu chính phủ, huy động vốn cho ngân sách nhà nước.

Nguồn: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước

Thứ tư, TTCK cũng đã góp phần tích cực thúc đẩy cổ phần hóa và cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN), tăng cường sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của doanh nghiệp. Đến nay, tổng vốn huy động thông qua đấu giá cổ phần hóa trên TTCK đạt gần 100.000 tỷ đồng, qua đó góp phần thúc đẩy quá trình cải cách đổi mới DNNN. TTCK cũng hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, giúp các ngân hàng thương mại tăng tổng vốn điều lệ từ 20,6 nghìn tỷ đồng lên 278,6 nghìn tỷ đồng.

Nguồn: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước

Thứ năm, quy mô vốn hóa TTCK có sự tăng trưởng vượt bậc, tăng hàng nghìn lần so với thời kỳ đầu. Từ mốc ban đầu chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết với vốn hóa thị trường chỉ đạt 986 tỷ đồng, chiếm 0,28% GDP vào năm 2000, đến nay, TTCK Việt Nam đã có 695 công ty niêm yết trên 2 Sở GDCK và trên 400 công ty đăng ký giao dịch trên UPCoM, quy mô niêm yết đã tăng 2.300 lần; vốn hóa thị trường cổ phiếu tăng hơn 1.500 lần so với năm 2000. Giá trị dư nợ trái phiếu hiện chiếm khoảng 24% GDP, mức vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt trên 45% GDP. Tính chung cả cổ phiếu và trái phiếu quy mô TTCK chiếm khoảng 69% GDP. Giá trị giao dịch bình quân toàn thị trường hiện nay đã tăng lên mức cao nhất từ trước đến nay, đạt gần 6.890 tỷ đồng/phiên, tăng 4.900 lần so với năm 2000, góp phần định hình hệ thống tài chính hiện đại.

Thứ sáu, thị trường ngày càng thu hút số lượng lớn sự tham gia của các nhà đầu tư (NĐT) trong và ngoài nước. Trong khi dòng vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng rút khỏi nhiều thị trường mới nổi, TTCK Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn đối với các NĐT nước ngoài. Dòng vốn nước ngoài 11/2016 đã vào ròng với giá trị cao nhất 8 năm qua. Số lượng tài khoản NĐT đã không ngừng gia tăng, từ khoảng 3.000 tài khoản NĐT tham gia khi mới mở cửa thị trường vào năm 2000, hiện đạt 1,69 triệu tài khoản, tăng 580 lần so với năm 2000; số lượng NĐT nước ngoài cũng đã tăng 2,3 lần so với năm 2007, huy động khoảng 17,2 tỷ USD vốn đầu tư gián tiếp (cao nhất từ trước tới nay), góp phần làm tăng quy mô vốn đầu tư xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Nguồn: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước

Thứ bảy, Hệ thống các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán đã có sự phát triển mạnh và đã được tái cấu trúc về số lượng, quy mô vốn, nghiệp vụ và công nghệ với mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch tại các tỉnh, thành phố trong cả nước với 79 công ty chứng khoán (CTCK), 46 công ty quản lý quỹ hoạt động bình thường. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán đã thực sự trở thành trung gian tài chính giữa NĐT với thị trường, đóng góp tích cực cho công tác tư vấn cổ phần hóa, tư vấn phát hành và sáp nhập; tái cấu trúc doanh nghiệp. Thông qua công tác tái cấu trúc, số lượng các CTCK đã giảm 25% (từ 105 xuống 79 công ty), chất lượng được tăng cường, đã áp dụng tiêu chuẩn an toàn tài chính theo Basel II, áp dụng nguyên tắc quản trị công ty, quản trị rủi ro và tiêu chí cảnh báo sớm theo tiêu chuẩn CAMEL.

Thứ tám, hệ thống tổ chức thị trường, mô hình và cấu trúc thị trường ngày càng được nâng cấp và phát triển. Các Sở Giao dịch chứng khoán, thị trường liên kết chứng khoán đã thực hiện chức năng giao dịch, lưu ký, thanh toán chuyển giao chứng khoán thông suốt, an toàn, đồng thời chú trọng phát triển công nghệ thông tin, phát triển nguồn nhân lực, quản trị nội bộ và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đa dạng cho thị trường.

Thứ chín, hoạt động thanh tra, giám sát và cưỡng chế thực thi đã được thực hiện có hiệu quả, góp phần giữ vững ổn định, kỷ cương pháp luật của thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT.

Trong 2016, tình hình kinh tế, tài chính thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn, thách thức. Tuy nhiên, Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp quyết liệt, xây dựng nền hành chính kiến tạo, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, duy trì động lực tăng trưởng; kinh tế vĩ mô, mặt bằng lãi suất ổn định, tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng có sự cải thiện. Các giải pháp tài chính và chính sách thúc đẩy cổ phần hóa, gắn cổ phần hóa với niêm yết/đăng ký giao dịch trên TTCK mang lại hiệu quả tích cực trong việc tăng nguồn hàng chất lượng cho thị trường. Công tác tái cấu trúc TTCK đã đạt được những kết quả tích cực. Trên cơ sở đó, TTCK Việt Nam đã duy trì được tốc độ tăng trưởng tốt và được đánh giá là 1 trong 5 thị trường thế giới có mức tăng trưởng cao nhất tại khu vực Đông Nam Á.

Bài học kinh nghiệm

Những kết quả đạt được trong công cuộc xây dựng và phát triển TTCK nước ta là hết sức to lớn. Từ TTCK sơ khai đến nay đã hình thành khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh, hệ thống thị trường đầy đủ, đồng bộ góp phần quan trọng vào huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.

Lần đầu tiên ở nước ta, chúng ta đã thành công trong việc xây dựng và phát triển TTCK trong khi chưa có mô hình định sẵn, chưa có thực tiễn. Những yếu tố, điều kiện cần thiết cho sự ra đời của TTCK ở nước ta thời điểm đó hầu như chưa có hoặc manh nha ở mức độ thấp. Đặc biệt, trong bối cảnh thị trường tài chính toàn cầu khủng hoảng, kinh tế thế giới suy thoái và hồi phục khó khăn, các nước trong khu vực thực hiện giảm giá đồng nội tệ, TTCK các nước biến động, giá dầu sụt giảm, nhưng TTCK Việt Nam vẫn phát triển an toàn, không bị đổ vỡ, đóng cửa như nhiều nước khác (Thái Lan, Indonesia và cả Nga, Trung Quốc… cũng đã từng bị đổ vỡ, nhiều nước phải đóng cửa sau 10 năm mới mở trở lại).

Từ thực tiễn quá trình xây dựng và phát triển TTCK Việt Nam, chúng ta rút ra được nhiều kinh nghiệm và bài học quý báu, cụ thể:

(i) Nhà nước giữ vai trò quyết định ngay từ đầu trong việc xây dựng, triển khai, phát triển, quản lý, khuyến khích và tạo điều kiện cho TTCK phát triển theo đúng đường lối của Đảng và Nhà nước. Nhà nước quản lý thống nhất bằng pháp luật, cơ chế chính sách nhằm tạo điều kiện cho thị trường hoạt động thông suốt, an toàn, trật tự và có hiệu quả.

(ii) Xây dựng một TTCK hoạt động ổn định, an toàn, công bằng, công khai, hiệu quả, bảo vệ lợi ích của NĐT, tôn trọng các quy luật thị trường; từng bước hội nhập với TTCK các nước trong khu vực và quốc tế. Đảm bảo sự thuận tiện cho các đối tượng tham gia thị trường để khai thác tối đa mọi nguồn lực trong và ngoài nước. Cần đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả, tính bền vững của sự phát triển TTCK, gắn kết với sự phát triển của thị trường tài chính, sự phát triển kinh tế xã hội đất nước và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

(iii) Phát triển TTCK từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, kết hợp giữa xây dựng, phát triển thị trường với việc đổi mới, cơ cấu lại nhằm bảo đảm tính bền vững, ổn định, hiệu quả của thị trường, phù hợp với điều kiện và tình hình cụ thể của đất nước, bảo đảm tính chủ động trong việc phát triển và hội nhập TTCK.

(iv) TTCK được phát triển phải gắn liền với quá trình đổi mới và cải cách nền kinh tế, cải cách DNNN, quá trình cổ phần hóa, quá trình xác lập đồng bộ các yếu tố thị trường trong nền kinh tế, gắn với sự phát triển đồng bộ của các thị trường khác như thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản, thị trường bảo hiểm; đồng thời gắn liền với việc phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài chính và chính sách tín dụng.

(v) Sự lựa chọn phương thức đổi mới, phát triển và mô hình cho TTCK nước ta cần căn cứ cụ thể vào điều kiện và thực tiễn phát triển kinh tế xã hội trong nước trên cơ sở có đánh giá có chọn lọc kinh nghiệm phát triển TTCK các nước và hướng theo các chuẩn mực, thông lệ quốc tế.

(vi) Việc phát triển TTCK phải đi liền với việc thể chế hóa nhằm tạo dựng hành lang pháp lý đầy đủ cho hoạt động của thị trường, đồng thời phải nâng cao năng lực quản lý, giám sát của Nhà nước nhằm bảo đảm khả năng kiểm soát thị trường; đồng thời gắn liền với việc nâng cao năng lực quản trị, năng lực hoạt động và ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể tham gia và liên quan đến TTCK.

Triển vọng và phát triển

Trong giai đoạn tới, với một loạt giải pháp, quyết tâm của Chính phủ trong việc thay đổi cơ chế quản lý, quyết tâm cải thiện môi trường, điều kiện đầu tư kinh doanh, phát triển nền hành chính kiến tạo, phục vụ của Chính phủ, kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ có mức phục hồi cao hơn trong năm 2017; lạm phát tiếp tục được kiểm soát ở mức hợp lý; tín dụng tăng trưởng tốt... Cùng với các giải pháp quyết liệt đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa DNNN gắn với niêm yết trên TTCK, thoái vốn, giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước tại các DNNN cổ phần hóa, nhiều doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ lên niêm yết, đăng ký giao dịch, qua đó quy mô thị trường sẽ tăng trưởng mạnh, đồng thời tạo thêm nhiều hàng hóa có chất lượng cao hơn, nhiều lựa chọn hơn cho các NĐT, từ đó thu hút tốt hơn các NĐT nước ngoài. Đây chính là những yếu tố, tiền đề quan trọng để cho TTCK của chúng ta tiếp tục phát triển trong năm 2017 và những năm tới.

Định hướng phát triển TTCK Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020 sẽ tiếp tục chuyển từ giai đoạn phát triển theo chiều rộng sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu, từng bước khẳng định vai trò kênh huy động vốn trung và dài hạn của nền kinh tế. Mục tiêu của ngành Chứng khoán đặt ra phải phát triển TTCK với nhịp độ nhanh hơn, đảm bảo ổn định, vững chắc, cấu trúc hoàn thiện; tăng cường tính công khai, minh bạch và hội nhập quốc tế, áp dụng thông lệ quốc tế phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tiếp tục tăng quy mô, độ sâu, tính thanh khoản, chất lượng, hiệu quả của TTCK; nâng cao sức cạnh tranh, năng lực của hệ thống định chế trung gian, tổ chức phụ trợ và mở cửa thị trường theo các cam kết quốc tế; tăng cường năng lực quản lý, giám sát thị trường.

Để TTCK thực sự đáp ứng được những yêu cầu phát triển của nền kinh tế và các mục tiêu đề ra, chúng ta cần thực hiện các giải pháp sau:

Một là, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao năng lực quản lý, giám sát: Xây dựng và trình Quốc hội ban hành Luật Chứng khoán sửa đổi, đồng thời tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán theo hướng thông lệ quốc tế.

Hai là, tăng cung hàng hóa cho thị trường và cải thiện chất lượng nguồn cung: Áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về kế toán, báo cáo tài chính, công bố thông tin, quản trị công ty; nâng cao điều kiện, tiêu chí của công ty đại chúng; nâng cao chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán, tư vấn tài chính, thẩm định giá...; Tiếp tục đa dạng phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng, đổi mới phương thức định giá và gắn cổ phần hóa DNNN với niêm yết trên TTCK. Đa dạng hóa các sản phẩm chứng khoán và phát triển TTCK phái sinh, từng bước triển khai, hướng dẫn giao dịch hợp đồng tương lai cổ phiếu, quyền chọn chỉ số, trái phiếu và cổ phiếu.

Tiếp tục hoàn thiện và phát triển thị trường trái phiếu, theo đó xây dựng hệ thống các nhà kinh doanh trái phiếu sơ cấp; từng bước hình thành các nhà tạo lập thị trường trái phiếu; tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm trái phiếu Chính phủ; thúc đẩy sự phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp; thúc đẩy việc thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín, có năng lực chuyên môn. Tiếp tục phát triển và khuyến khích các NĐT tổ chức như quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí tham gia đầu tư trên thị trường trái phiếu.

Ba là, phát triển và đa dạng hóa cơ sở NĐT, cải thiện chất lượng cầu đầu tư nhằm hướng tới cầu đầu tư bền vững: Hoàn thiện cơ sở pháp lý thu hút sự tham gia của NĐT nước ngoài; hoàn thiện nâng hạng TTCK Việt Nam từ vị trí thị trường cận biên lên vị trí thị trường mới nổi trên bảng xếp hạng MSCI. Phát triển hệ thống NĐT tổ chức, NĐT chuyên nghiệp; triển khai phát triển quỹ hữu trí bổ sung tự nguyện.

Bốn là, phát triển, nâng cao năng lực cho hệ thống các tổ chức trung gian thị trường, phát triển các hiệp hội, tổ chức phụ trợ.

Năm là, tái cấu trúc tổ chức thị trường, hợp nhất 2 Sở giao dịch chứng khoán, hoàn thiện và hiện đại hóa cơ sở vật chất hạ tầng, công nghệ thông tin của thị trường, nâng cao chất lượng hoạt động và giao dịch trên TTCK.

Sáu là, tăng cường năng lực quản lý, giám sát và cưỡng chế thực thi: Bổ sung quy định cho phép Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có đủ thẩm quyền để thực thi các chức năng giám sát, thanh tra và cưỡng chế thực thi theo thông lệ quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm nhằm đảm bảo thực thi pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT, lòng tin của thị trường. Tăng cường phối hợp giữa cơ quan thanh tra, giám sát TTCK với cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng, bảo hiểm, tài chính, thuế và cơ quan công an trên cơ sở các biên bản ghi nhớ song phương.

Bảy là, tăng cường hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập, đẩy mạnh công tác đào tạo, nghiên cứu và thông tin tuyên truyền.

Sau 20 năm hình thành và phát triển, TTCK Việt Nam đã vượt qua các thách thức và tạo dựng được một cơ sở nền tảng cơ bản, vững chắc. Với tiềm năng phát triển kinh tế của đất nước, với quyết tâm cải cách của Đảng và Nhà nước, TTCK Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn chủ đạo của nền kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước./.