Việt Nam xác định rõ mô hình tăng trưởng theo hướng xanh hóa các ngành kinh tế

Phát biểu đề dẫn tại “Diễn đàn quốc gia về phát triển bền vững Việt Nam 2023” với chủ đề Hội thảo khoa học quốc gia “Thúc đẩy chuyển dịch xanh, bao trùm ở Việt Nam”, do Học viện Chính sách và Phát triển phối hợp cùng Tạp chí Kinh tế và Dự báo tổ chức hôm nay (ngày 30/11), PGS. TS. Trần Trọng Nguyên, Giám đốc Học viện Chính sách và Phát triển cho rằng, phát triển bền vững (PTBV) đã trở thành xu thế tất yếu và mục tiêu hàng đầu mà các quốc gia đều hướng tới. Trong bối cảnh hiện nay, mục tiêu phát triển không chỉ dừng lại ở phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại, mà còn phải đảm bảo không gây tổn hại đến nhu cầu của các thế hệ tương lai. Trên cơ sở đó, mục tiêu về PTBV đã được Liên Hợp quốc xây dựng, nhằm kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa vấn đề tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Năm 2015, tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hợp quốc, 193 quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã cam kết thực hiện và thông qua Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững…

Việt Nam gặp phải bài toán nan giải về tính bao trùm của chuyển dịch xanh
Theo PGS. TS. Trần Trọng Nguyên, Giám đốc Học viện Chính sách và Phát triển, tại Việt Nam, chuyển dịch xanh nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước

Phát triển bền vững có 17 mục tiêu thành phần trải rộng trên 3 trụ cột chính là: (i) Phát triển bền vững về kinh tế; (ii) Phát triển bền vững về xã hội và (iii) Phát triển bền vững về môi trường. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu trên toàn thế giới đang liên tiếp thiết lập những kỷ lục mới về nhiệt độ, lượng mưa, mực nước. Biến đổi khí hậu cùng với sự gia tăng về tần suất và mức độ ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết cực đoan được xem là nguyên nhân chính dẫn tới sự thay đổi môi trường, hệ sinh thái, tác động tiêu cực tới sự phát triển kinh tế - xã hội. Theo báo cáo của Hội đồng Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu (IPCC), cuộc sống của con người vào năm 2100 sẽ thay đổi hoàn toàn do các vấn đề như: nóng lên toàn cầu, mực nước biển dâng và băng tan ở hai cực. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cũng khẳng định, nếu không có những chính sách thích ứng và giảm nhẹ, biến đổi khí hậu có thể làm GDP bình quân đầu người giảm xuống 7% vào năm 2100. Trong bối cảnh đó, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) nhận định, chuyển dịch kinh tế xanh là chìa khóa để đạt được mục tiêu PTBV.

Theo ông Trần Trọng Nguyên, tại Việt Nam, chuyển dịch xanh nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, được hỗ trợ bởi khung khổ pháp lý, dẫn dắt bởi chiến lược và kế hoạch hành động quốc gia. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định “Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường” là một trong những định hướng chủ chốt phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030. Đồng thời, xác định tăng trưởng xanh là chìa khóa của PTBV, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chiến lược tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Chiến lược này đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển xanh, bền vững. Để cụ thể hóa chiến lược về tăng trưởng xanh, Việt Nam đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030. Trong đó, Việt Nam xác định rõ mô hình tăng trưởng theo hướng xanh hóa các ngành kinh tế; giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP; xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững; xanh hóa quá trình chuyển dịch trên nguyên tắc bình đẳng, bao trùm, nâng cao năng lực chống chịu.

Tính bao trùm của chuyển dịch xanh ở cấp độ địa phương, doanh nghiệp và người dân còn gặp nhiều khó khăn

Cũng theo ông Trần Trọng Nguyên, mặc dù tất cả các quốc gia đều nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh và PTBV, nhưng thực tiễn cho thấy chuyển dịch xanh là không đồng đều giữa các quốc gia, thậm chí trong một quốc gia, chuyển dịch xanh là không đồng đều giữa các địa phương, các khối doanh nghiệp và các bộ phận người dân. Bài toán mà nhiều quốc gia đang đối mặt trong trình xanh hóa nền kinh tế, là tính bao trùm của chuyển dịch xanh, ở đó đảm bảo sự bình đẳng về điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển, không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình chuyển đổi xanh.

Việt Nam gặp phải bài toán nan giải về tính bao trùm của chuyển dịch xanh
Diễn đàn thu hút sự tham gia của đông đảo các chuyên gia, nhà quản lý trong nước và quốc tế

Việt Nam là một trong những quốc gia trong khu vực sớm tiếp cận với các mô hình tăng trưởng xanh. Qua hơn 10 năm triển khai Chiến lược tăng trưởng xanh kể từ năm 2012, có thể thấy rằng, nhận thức của người dân, của cộng đồng và toàn xã hội về ý nghĩa của tăng trưởng xanh đã được cải thiện rõ rệt thông qua các bước thay đổi hành vi sản xuất và kinh doanh bền vững, xuất hiện ngày càng nhiều các mô hình kinh doanh tuần hoàn, an toàn, văn minh và thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, như rất nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam cũng đang gặp phải bài toán nan giải về tính bao trùm của chuyển dịch xanh. Trong đó, tính bao trùm của chuyển dịch xanh ở cấp độ địa phương, doanh nghiệp và người dân còn gặp nhiều khó khăn và vướng mắc, đặc biệt sau đại dịch Covid-19.

Tính bao trùm ở cấp độ địa phương: Tính đến năm 2021, GRDP bình quân đầu người của các vùng kinh tế trong cả nước có sự phát triển không đồng đều. Cụ thể, GRDP bình quân đầu người của khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng ở ngưỡng cao, lần lượt đạt 142,23 triệu đồng và 110,43 triệu đồng; trong khi khu vực Tây Nguyên chỉ đạt 53,09 triệu đồng và Trung du và miền núi phía Bắc chỉ đạt 56,13 triệu đồng. Kéo theo đó, năng suất lao động cũng có sự phân cực mạnh giữa các địa phương khi một số tỉnh thành có năng suất lao động ở mức rất cao, như: Bà Rịa – Vũng Tàu (561,2 triệu đồng/người), TP. Hồ Chí Minh (305,5 triệu đồng/người), Quảng Ninh (350,03 triệu đồng/người), trong khi một số tỉnh thành có năng suất lao động ở mức rất thấp, như: Điện Biên (73,88 triệu đồng/người), Bến Tre (75 triệu đồng/người). Đặc biệt, theo báo cáo về Chỉ số phát triển bền vững cấp tỉnh (PSDI) 2022, kết quả trung bình của 63 tỉnh/thành trên cả nước năm 2022 đạt 52,53, tăng 1,15 điểm so với năm 2021. Tuy nhiên, sự chênh lệch về phát triển giữa các địa phương còn lớn. Nếu như những tỉnh dẫn đầu có kết quả vượt trội, Quảng Ninh (với 66,46 điểm), Hải Phòng (65,50 điểm) và vị trí thứ ba thuộc về Đà Nẵng (65,00 điểm), thì ở phía cuối bảng xếp hạng, nhóm các địa phương, như: Điện Biên, Gia Lai, Hà Giang, Cao Bằng, Đắk Nông và Lai Châu có mức điểm thấp dưới 40. Điều này cho thấy, các địa phương cần tiếp tục tích cực, nỗ lực nhiều hơn nữa trong tiến trình thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự PTBV và Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam.

Tính bao trùm ở cấp độ doanh nghiệp: Theo kết quả Tổng điều tra kinh tế năm 2021, số lượng doanh nghiệp và lao động làm việc trong khu vực ngoài nhà nước và FDI tăng nhanh, trong khi khu vực nhà nước giảm rõ rệt. Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh, cộng đồng doanh nghiệp FDI tại Việt Nam có khả năng đạt được cam kết phát thải bằng 0 nhanh hơn khối các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp trong nước gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng xanh do hạn chế về có kinh nghiệm, vốn và công nghệ. Do vậy, còn nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa “bị bỏ lại phía sau” trong tiến trình thực hiện mục tiêu về PTBV.

Tính bao trùm ở cấp độ người dân: Tỷ lệ lao động đang làm việc hàng năm trên tổng dân số của Việt Nam giảm từ 57,3% năm 2011 xuống còn 49,82% năm 2021. Tương ứng với đó, tỷ lệ lao động thất nghiệp trong độ tuổi lao động có xu hướng gia tăng, từ 2,22% năm 2011 lên 2,48% năm 2020 và đạt đỉnh 3,2% năm 2021. Bên cạnh đó, theo thống kê của Viện Công nhân và Công đoàn, cuối năm 2016, Việt Nam có khoảng khoảng 13 triệu người thuộc nhóm lao động yếu thế. Trong đó, 4,2 triệu lao động là người khuyết tật, 6,5 triệu lao động nghèo, 1 triệu lao động di cư, 180.000 lao động nhiễm HIV, 190.000 lao động nghiện ma túy. Sau đại dịch Covid-19, số lao động yếu thế có xu hướng tăng với minh chứng là tỷ lệ lao động thất nghiệp có xu hướng tăng lên. Một số mất việc do doanh nghiệp, cơ sở kinh tế bị thu hẹp hoạt động; một số sức khỏe bị ảnh hưởng nên không thể tiếp tục công việc đã từng làm, giờ thất nghiệp hoặc phải làm việc trái tay; một số từng về quê tránh dịch nay phải đến nhiều khu vực khác nhau để tìm việc trong bối cảnh việc làm ngày càng khó tìm; một số lao động tự do phải nghỉ việc giờ muốn quay trở lại làm việc cũng đang gặp khó khăn.../.