2.500 tỷ đồng tín dụng hỗ trợ người dân xuất khẩu lao động
Kênh tín dụng của người nghèo
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, từ năm 2004, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 365/2004/QĐ-NHNN, ngày 13/04/2004 về cho vay đối với lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Tiếp sau đó là hàng loại văn bản được ban hành nhằm hỗ trợ người dân thực hiện đi làm việc ở nước ngoài, như: Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg, ngày 29/04/2009 về Phê duyệt Đề án Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020; Quyết định số 1465/QĐ-TTg về việc thực hiện thí điểm ký quỹ đối với người lao động đi làm việc tại Hàn Quốc theo Chương trình cấp phép việc làm cho lao động nước ngoài của Hàn Quốc mới triển khai năm 2013; Chính sách cho vay theo Nghị định số 61/2015/NĐ-CP, ngày 09/07/2015 về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm và Chính sách cho vay theo Quyết định số 63/2015/QĐ-TTg ngày 10/12/2015 về chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.
Đến nay, tín dụng ưu đãi đối với hoạt động đưa người lao động đi xuất khẩu lao động, Ngân hàng Chính sách Xã hội đã giải ngân cho gần 108.580 hộ gia đình được vay vốn với gần 2.500 tỷ đồng, qua đó giúp cho 109.462 lao động thuộc hộ nghèo, gia đình chính sách và người đi lao động tại các huyện nghèo được vay vốn đi xuất khẩu lao động có thời hạn ở nước ngoài. Cùng với đó, doanh số thu nợ của chương trình cũng đạt gần 2.014 tỷ đồng cho thấy chính sách đạt hiệu quả rất tốt.
Tính đến hết tháng 03/2017, tổng dư nợ cho vay xuất khẩu lao động đạt trên 509 tỷ đồng với 13.377 khách hàng còn dư nợ.
Phải khẳng định rằng, cho vay xuất khẩu lao động của Ngân hàng Chính sách Xã hội đang triển khai là kênh tín dụng giúp các hộ nghèo, hộ gia đình chính sách, hộ gia đình sinh sống tại các huyện nghèo và đặc biệt với đối tượng vay là người dân tộc thiểu số có điều kiện để cải thiện cuộc sống, thoát nghèo, nâng cao trình độ. Nhờ được vay vốn đi xuất khẩu lao động mà hơn 100 ngàn lao động có việc làm. Người lao động đi nước ngoài làm việc có thu nhập và gửi tiền về giúp gia đình có tiền vốn làm ăn tại quê nhà.
Nhờ được tiếp xúc với khoa học kỹ thuật tiên tiến, phong cách làm việc khoa học, hiện đại nên người lao động đã thay đổi được nhận thức, nâng cao trình độ nghề nghiệp, tích lũy được kinh nghiệm. Đây cũng là kiến thức cần có, là tiền đề cho người lao động sau khi hết hạn hợp đồng về nước tham gia lao động sản xuất, kinh doanh có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao hơn.
Nguồn vốn cho vay đi xuất khẩu lao động từ Ngân hàng Chính sách Xã hội được nhân dân đón nhận và đồng tình ủng hộ, góp phần đáng kể vào chương trình giảm nghèo tại địa phương nói riêng và của Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Giảm nghèo nói chung. Đồng thời, nhờ phát triển được phong trào đi lao động ở nước ngoài đã đem về đất nước một lượng ngoại tệ đáng kể, mở rộng quan hệ hợp tác giữa các nước, giúp đất nước hội nhập và phát triển.
Cùng với đó, người lao động đi nước ngoài làm việc còn được tiếp xúc với khoa học kỹ thuật tiên tiến, phong cách làm việc khoa học, hiện đại nên người lao động đã thay đổi được nhận thức, nâng cao trình độ nghề nghiệp, tích lũy được kinh nghiệm để khi trở về nước có điều kiện mở doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo việc làm cho gia đình và cộng đồng. Và đây là kiến thức cần có, là tiền đề cho người lao động sau khi hết hợp đồng về nước tham gia lao động sản xuất, kinh doanh có năng suất, chất lượng cao hơn.
Chương trình tín dụng hỗ trợ xuất khẩu lao động đã đem lại cơ hội đổi đời cho nhiều người dân nghèo
Vẫn còn nhiều cái khó
Mặc dù đã đạt được những kết quả khả quan, nhưng trong quá trình triển khai, chương trình vẫn còn gặp khó khăn. Cụ thể:
Thứ nhất, người lao động thuộc huyện nghèo, là khu vực vùng sâu vùng xa, đi lại rất khó khăn, thiếu thông tin do đó công tác tuyên truyền quảng bá cho chương trình này còn gặp nhiều hạn chế, phần lớn là người dân tộc thiểu số nên còn một số chưa thực sự thay đổi được tư duy trong lao động, ý thức kỷ luật lao động không cao. Bên cạnh đó, một số công ty chỉ quan tâm đến số lượng chứ không quan tâm đến chất lượng lao động, nên khi ra nước ngoài làm việc, người lao động thiếu ý thức, trình độ tay nghề kém, sức khỏe không đáp ứng yêu cầu công việc nên có một số người lao động phải về nước trước thời hạn, gây ra tình trạng người đi xuất khẩu lao động hoang mang, lo ngại dẫn đến hiệu quả của chương trình chưa thật sự đạt hiệu quả cao.
Thứ hai, doanh nghiệp cố tình thu phí cao hơn so với quy định gây khó khăn cho người lao động, đặt biệt là người lao động thuộc các đối tượng chính sách, hộ nghèo.
Thứ ba, việc quản lý thu nhập của người lao động còn nhiều hạn chế, do bên tuyển dụng người lao động hoặc đối tác sử dụng người lao động thực hiện trả lương, thu nhập trực tiếp cho người lao động, trong khi đó chưa có quy chế quản lý thu nhập của người lao động đã vay vốn nên có hiện tượng chây ỳ trong việc trả nợ và Ngân hàng gặp khó khăn trong việc thu hồi nợ.
Thứ tư, hiện tượng người lao động sang làm việc ở nước ngoài có thu nhập thấp hơn so với hợp đồng đã ký hoặc công việc không đúng với hợp đồng đã ký, dẫn đến người lao động không có khả năng trả nợ, người lao động bỏ về nước,.. đây cũng là nguyên nhân người vay không trả được nợ vay tại Ngân hàng.
Thứ năm, công tác tuyển dụng của một số doanh nghiệp quản lý còn lỏng lẻo, doanh nghiệp chưa tập chung vào chất lượng đào tạo cho người lao động (sức khỏe, trình độ, kiến thức, kỷ luật,...) dẫn đến người lao động không đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng. Cá biệt có những cá nhân núp bóng doanh nghiệp cố tình lợi dụng để lừa đảo những người dân thiếu hiểu biết, ít được tiếp cận với thông tin (ở những nơi vùng sâu, vùng xa, người lao đồng là người dân tộc thiểu số).
Thứ sáu, trong thời gian qua việc chuyển đổi mô hình hoạt động của các doanh nghiệp ít nhiều ảnh hưởng tới trách nhiệm của doanh nghiệp tới người lao động nên dẫn đến tình trạng doanh nghiệp đã ký hợp động với lao động nhưng chưa thực hiện theo cam kết với người lao động. Bên cạnh đó còn có nguyên nhân cũng ảnh hướng đến chất lượng tín dụng nữa là người lao động đã chuyển tiền cho doanh nghiệp, nhưng doanh nghiệp không thực hiện đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo cam kết.
Cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ hơn giữa các bộ, ngành
Để giảm bớt tình trạng này và nâng cao hiệu quả, chất lượng của chương trình thì cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ hơn nữa giữa các bộ, ngành có liên quan và địa phương, doanh nghiệp xuất khẩu lao động, trong đó coi trọng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền.
Tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động, cần có hành lang pháp lý chặt chẽ đối với đơn vị làm dịch vụ xuất khẩu lao động để bảo vệ quyền lợi cho người lao động, tránh các trường hợp người lao động bị lừa đảo. Đồng thời nâng cao trách nhiệm và chất lượng tuyển chọn lao động của doanh nghiệp dịch vụ xuất khẩu lao động. Có chế tài, biện pháp xử lý đối với doanh nghiệp, đơn vị tuyển chọn không thực hiện đúng hợp đồng với người lao động, gây thiệt hại cho người lao động và rủi ro cho nguồn vốn vay của Nhà nước.
Các bộ, ngành liên quan mở các diễn đàn trao đổi theo định kỳ để cùng các đơn vị tham gia nắm bắt thông tin về tình hình, kết quả triển khai chương trình, giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc phát sinh để chương trình đạt hiệu quả hơn.
Các doanh nghiệp, dịch vụ khi tuyển lao động cần chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường thông qua các biện pháp tăng cường đầu tư về tổ chức bộ máy, tài chính, cơ sở đào tạo, tăng cường công tác quản lý và bảo vệ lợi ích người lao động. Cần tập trung đầu tư cho công tác đào tạo và giáo dục định hướng đối với người lao động nhằm trang bị những kiến thức cần thiết để đáp ứng được yêu cầu công việc, nâng cao chất lượng tuyển chọn người lao động đi làm việc ở nước ngoài./.
Bình luận