Một quy định cần thiết

Việc sửa đổi Điều 476, Bộ luật Dân sự về quy định trần lãi suất trong quan hệ vay mượn dân sự là hết sức cần thiết. Bởi khi chúng ta ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, thì các quy định của pháp luật cũng phải tiệm cận hơn với quy luật thị trường, đặc biệt là càng phải dự liệu được những tình huống sẽ nảy sinh khi thực hiện nền kinh tế thị trường đầy đủ. Do đó, càng cần có nhiều công cụ để bảo vệ người dân, bảo vệ các hoạt động kinh tế lành mạnh.

Dự thảo luật Dân sự trình Quốc hội đưa ra hai phương án trong quy định trần lãi suất. Phương án 1 là lãi suất cho vay không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay. Phương án 2 là không quá 200% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố. Trường hợp vượt quá các mức giới hạn này thì lãi suất cho vay đó không có hiệu lực.

Phương án 1 có ưu điểm là đưa ra mức cố định, không cần dựa vào lãi suất cơ bản, như vậy Ngân hàng Nhà nước không cần phải công bố lãi suất cơ bản nữa. Tuy nhiên, nếu có biến động về kinh tế, lạm phát lên quá cao, chẳng hạn lên đến hơn 18% như năm 2011 thì người cho vay sẽ rất thiệt thòi.

Về phương án 2, thực chất là vẫn duy trì cách quy định dựa theo lãi suất cơ bản như các luật trước đây, nhưng điều chỉnh nâng từ 150% lên 200%. Tuy nhiên, điều vướng mắc ở đây là nhiều năm nay Ngân hàng Nhà nước đã không công bố lãi suất cơ bản. Do vậy, khi xử lý tranh chấp toà án phải áp dụng lãi suất cơ bản được công bố cách đây nhiều năm, không còn phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay.

Sử dụng tài chính trước khi có khả năng tài chính là nhu cầu thực tế xảy ra ở bất cứ quốc gia nào, trình độ kinh tế nào. Khi trong xã hội có nhu cầu vay, thì sẽ xuất hiện người cho vay. Các quan hệ dân sự này sẽ ngày càng đa dạng và phong phú đòi hỏi chúng ta phải có một cái “van” để ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật có thể xảy ra. Nếu vậy, liệu chúng ta có cần đến trần lãi suất vay mượn dân sự?

Theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường, quy định trần lãi suất là cần thiết. Nếu không quy định thì “chết” dân, “chết” người nghèo. Nước nào cũng quy định về lãi suất điều chỉnh quan hệ vay mượn. Nếu vượt quá quy định của Bộ Luật dân sự thì thành tội cho vay nặng lãi. Sau này Quốc hội quyết định, ví dụ quyết định là “trần” là 20%, thì trong khuôn khổ của 20% là hợp pháp, trên khuôn khổ của 20% coi như cho vay nặng lãi. Nhưng Bộ trưởng Hà Hùng Cường cũng cho rằng, vay nặng lãi bị tội hình sự thì cần phải có tình tiết nữa là cho vay gấp mấy lần, giả sử là quá 5 lần, chứ không phải cho vay vượt “trần” một tí là xử lý hình sự ngay.

Đồng quan điểm, đại biểu Ngô Văn Minh, Ủy viên thường trực Ủy ban pháp luật của Quốc hội cho rằng, trần lãi suất để tạo điều kiện cho các cơ quan thực thi pháp luật dễ xử lý khi có tranh chấp xảy ra. Vượt quá trần đó là cho vay nặng lãi và sẽ bị xử lý theo Bộ luật Hình sự. Điều này đảm bảo quyền lợi cho người yếu thế, chống cho vay nặng lãi và tạo cơ chế, chế tài xử lý “tín dụng đen” đang lộng hành trên thị trường tín dụng…

Trần lãi suất chỉ nên có trong vay dân sự

Có ý kiến cho rằng, nếu chỉ quy định trần lãi suất vay mượn dân sự, mà không quy định trần lãi suất vay mượn thương mại (tức hoạt động tín dụng), thì sẽ nảy sinh sự không “công bằng”. Nếu không quy định trần cho vay tín dụng thương mại, thì các ngân hàng sẽ dâng lãi suất lên cao quá, doanh nghiệp khó chịu nổi.

Song cần hiểu rằng, về bản chất, hai loại hình vay mượn trên hoàn toàn khác nhau. Bởi lẽ, các định chế tài chính này được thành lập và hoạt động theo những quy định khá khắt khe của luật chuyên ngành; cần có rất nhiều điều kiện đảm bảo sự an toàn khi hoạt động, phải chịu sự kiểm tra, giám sát thường xuyên của cơ quan quản lý chuyên ngành, của các thiết chế giám sát khác, phải công bố báo cáo tài chính thường niên, thậm chí theo quý cho cơ quan quản lý nhà nước… Nếu là tổ chức đã niêm yết thì còn chịu sự giám sát của đại hội đồng cổ đông, của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước…

Trong khi đó, hoạt động vay mượn dân sự (do Bộ luật Dân sự điều chỉnh), là một hoạt động tự do, nảy sinh trong vô vàn các quan hệ dân sự mà nếu không có một bên khởi kiện thì các hành vi vi phạm Luật Dân sự cũng… không được biết tới. Vì thế, không nên coi việc “áp đặt trần lãi suất” là một sự “công bằng”.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội và nhiều thành viên của Ủy ban Pháp luật Quốc hội cũng như đại biểu Quốc hội đều bày tỏ quan điểm ủng hộ: Loại các tổ chức tín dụng ra khỏi nhóm đối tượng áp trần lãi suất, để các tổ chức này hoạt động theo luật chuyên ngành.

Đại biểu Quốc hội Ngô Văn Minh cho biết, nguyên tắc của Bộ luật Dân sự đã quy định rõ là tự do thỏa thuận, tôn trọng quy định của đôi bên. Và chúng ta không thể dùng quy định của Bộ luật Dân sự để áp đặt lãi suất cho tất cả các tổ chức tín dụng mà phải theo các luật chuyên ngành về các tổ chức tín dụng. Thực tế, việc loại các tổ chức tín dụng ra khỏi phạm vi điều chỉnh của luật thì sau này, khi lãi suất cho vay tăng cao vẫn có hướng xử lý. Còn nếu đưa vào Bộ luật Dân sự thì quá khắt khe, vô hình trung khống chế quyền của các tổ chức tín dụng.

Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường cho hay, hai phương án đưa ra đều có “đuôi”, đó là trừ trường hợp Luật tổ chức tín dụng có quy định khác. Tổ chức tín dụng sinh ra để cho vay, mà cho vay theo dự án, những dự án nhìn thấy rõ lợi nhuận rồi, khả thi rồi thì có thể lãi suất rất nhẹ. Còn những dự án rủi ro thì lãi suất phải cao hơn, thì cái đó không bị khống chế bởi quy định nêu trên. Quy định nêu trên chỉ khống chế trong quan hệ dân với dân. Hơn nữa, hệ thống ngân hàng đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng Nhà nước và hệ thống ngân hàng cũng tự kiểm soát lẫn nhau.

Đại biểu Trần Du Lịch cũng đưa ra quan điểm, các ngân hàng làm sao có thể cho vay nặng lãi. Tất cả mọi hoạt động của ngân hàng đều phải minh bạch, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Mục tiêu mà chúng ta hướng tới là trị nhóm cho vay nặng lãi trong dân chúng. Ông Trần Du Lịch khẳng định, việc đưa các tổ chức tín dụng ra khỏi nhóm đối tượng bị điều chỉnh trong điều 467 của Bộ luật Dân sự (sửa đổi) là hoàn toàn đúng đắn.

Hơn nữa, do hoạt động trong kinh tế thị trường, các định chế tài chính cũng phải tuân theo các quy luật thị trường, mà trong đó quy luật cung - cầu là yếu tố điều tiết mạnh mẽ nhất. Đây cũng chính là lý do và là đích đến của tiến trình thực hiện tự do hóa lãi suất, giảm bớt các can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính vào thị trường, hướng tới một thị trường tài chính lành mạnh, minh bạch. Tự do lãi suất là xu hướng phát triển chung của toàn thế giới và Việt Nam đã hội nhập thì phải đi theo xu hướng ấy./.

Nguồn tham khảo:

http://anninhthudo.vn/tien-vang/quy-dinh-tran-lai-suat-khong-qua-20-tong-tien-vay-han-che-vay-nang-lai-tin-dung-den/643076.antd

http://tinnhanhchungkhoan.vn/tien-te/quy-dinh-tran-lai-suat-quan-trong-la-tu-duy-thi-truong-phai-ranh-mach-134027.html

http://tuoitre.vn/tin/kinh-te/20151030/khong-co-tran-lai-suat-thi-chet-nguoi-ngheo/993880.html