Những vấn đề đặt ra

Nền kinh tế Việt Nam kể từ sau khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 đến nay có nhiều biến động. Tuy vậy, tăng trưởng kinh tế hiện nay vẫn là điểm sáng trên bản đồ kinh tế thế giới. Nguyên nhân của thành công này có thể kể đến là do trong giai đoạn 2011-2015, Việt Nam tập trung mọi nguồn lực cho ổn định kinh tế vĩ mô, phục hồi sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó, từ năm 2015 trên nền tảng kinh tế vi mô ổn định đã mạnh mẽ thực hiện cải cách, cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư, đặc biệt là sự phát triển của khu vực tư nhân trong nước. Tuy vậy, những rào cản vẫn lộ rõ cản trở phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, như:

- Cải cách thể chế về tài chính còn chậm, nhất là về phân bổ nguồn lực và các chương trình tài cơ cấu lại nền kinh tế không tiến hành nhất quán, toàn diện và đủ mạnh để chuyển sang kinh tế thị trường đầy đủ và hiện đại. Qua đó, chưa tạo động lực đủ lớn để huy động nhiều hơn nguồn lực xã hội, phân bố và sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả hơn;

- Nhiều chủ trương, định hướng cải cách hợp lý và đúng đắn trong các nghị quyết của Đảng về chính sách tài chính đã không được triển khai thực hiện, như: phát triển đa dạng các dịnh chế tài chính, các quỹ đầu tư mạo hiểm, các quỹ bảo lãnh tín dụng, các tổ chức tài chính vi mô, các tổ chức tư vấn tài chính, dịch vụ kết toán, kiểm toán, xếp hạng tín nhiệm... cơ cấu lại và phát triển thị trường chứng khoán thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng của các doanh nghiệp tư nhân; hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và thể chế về phân phối kết quả làm ra để giải phóng sức sản xuất, tạo động lực và nguồn lực cho tăng trưởng, phát triển...

- Bội chi ngân sách cao và liên tục, thách thức tính bền vững của ngân sách. Quy mô cả thu và chi ngân sách có xu hướng giảm, trong khi đó, quy mô thu/GDP giảm nhanh hơn quy mô chi/GDP. Trong giai đoạn 2016-2018, tốc độ tăng chi cân đối ngân sách trung bình là 21%/năm. Tốc độ tăng thu - chỉ gần 10% năm, thấp hơn các giai đoạn trước đó (Tổng cục Thống kê, 2005-2018).

- Khó khăn trong giảm quy mô và điều chỉnh cơ cấu chi thường xuyên là thách thức của việc thay đổi hiệu suất chi thường xuyên trong tổng chi ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, thách thức với chi tiêu công, như: vấn đề hiệu quả và hiệu suất đầu tư công, kết hợp giữa chi đầu tư và chi thường xuyên, mẫu thuẫn trong phân cấp chi ngân sách và hiệu quả. Chi thường xuyên tăng nhanh trong cân đối từ 65,4% năm 2005 lên hơn 70% năm 2018. Trong đó, tốc độ tăng cho chi hành chính khoảng 18,5% trong giai đoạn 2010-2018 (Tổng cục Thống kê, 2005-2018).

Nguyên tắc chung trong hoàn thiện chính sách tài chính

Những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều thay đổi bất thường, tác động lớn đến các lĩnh vực kinh tế trong nước. Trước bối cảnh đó, Việt Nam cần nghiên cứu hoàn thiện các cơ chế, chính sách tài chính để phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay và định hướng 2030. Việc điều hành các hoạt động kinh tế phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng các quy tắc của kinh tế thị trường, các chính sách hỗ trợ phải dựa trên kết quả, hiệu quả hoạt động của các ngành kinh tế, trên cơ sở đảm bảo tính kỷ luật trong thực hiện chính sách, tạo ra môi trường và thị trường ổn định, thuận lợi, hấp dẫn đầu tư, giải phóng sức sản xuất. Cụ thể, các nguyên tắc chung trong hoàn thiện chính sách tài chính cụ thể như sau:

Thứ nhất, chính sách tài chính phải được xây dựng dựa trên cơ sở gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, hướng các nguồn lực tới việc thực hiện ưu tiên các ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược chung của nền kinh tế thông qua cơ chế, chính sách phù hợp, trong đó phải gắn với: (i) các ngành kinh tế có tính chất thiết yếu, có ảnh hưởng tích cực đối với quốc gia; (ii) các ngành có tác động mạnh đến toàn bộ nền kinh tế; (iii) các ngành kinh tế có lợi thế; (iv) các ngành phù hợp với thị trường nội địa và khu vực, phù hợp với xu thế phân công quốc tế, có thể thu hút đầu tư mạnh, tạo nguồn lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế, tạo ra được giá trị cao trong chuỗi giá trị toàn cầu; (v) và các ngành phát huy được lợi thế địa chính trị của Việt Nam;

Thứ hai, chính sách tài chính cần được xây dựng trên cơ sở gắn với lộ trình phát triển kinh tế - xã hội theo từng giai đoạn trung và dài hạn, gắn với từng đối tượng cụ thể về: loại sản phẩm; ngành, lĩnh vực, vùng; loại hình, quy mô và khu vực doanh nghiệp, đồng thời, đảm bảo tính đồng bộ trong quá trình hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, coi trọng yêu cầu về cân đối, bố trí nguồn lực trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội đã đề ra.

Thứ ba, chính sách tài chính cho phát triển kinh tế phải gắn với tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo từng giai đoạn, vừa đảm bảo phù hợp với các cam kết về hội nhập quốc tế, vừa hiện thực hóa, khai thác có hiệu quả các cơ hội của hội nhập quốc tế, phát huy lợi thế so sánh của đất nước.

Một số gợi ý chính sách tài chính

Mục tiêu của chính sách tài chính quốc gia là xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, đảm bảo giữ vững an ninh tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô, tài chính - tiền tệ, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội; huy động, quản lý, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính trong xã hội hiệu quả, công bằng; cải cách hành chính đồng bộ, toàn diện; đảm bảo tính hiệu quả và hiệu lực của công tác quản lý, giám sát tài chính.

Để đạt được mục tiêu này, theo chúng tôi, chính sách tài chính của Việt Nam cần:

(1) Hoàn thiện nền tảng thể chế cho lĩnh vực tài chính. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đất nước 5 năm 2020-2025 cần đẩy mạnh việc hoàn thiện thể chế tài chính, đảm bảo tính đồng bộ, công khai, minh bạch, ổn định và phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các cam kết quốc tế nói chung, các yêu cầu về phát triển công nghiệp và dịch vụ nói riêng. Phát triển đồng bộ các loại hình thị trường tài chính, dịch vụ tài chính; đẩy mạnh tái cơ cấu và nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước nhằm hỗ trợ phát triển các lĩnh vực kinh tế mà Việt Nam có lợi thế. Tiếp tục thực hiện nhất quán nguyên tắc quản lý giá theo cơ chế thị trường, đảm bảo đưa giá cả trở thành tín hiệu quan trọng cho quá trình phân bổ các nguồn lực xã hội.

Nhà nước cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật tài chính đối với doanh nghiệp, tập trung vào việc tháo gỡ các rào cản, vướng mắc về chính sách thuế, hải quan, thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài chính trên cơ sở đảm bảo tôn trọng quyền tự do kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, ổn định, minh bạch, thông thoáng. Bên cạnh đó, cần đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục hành chính; đơn giản hoá và công khai hoá qui trình, thủ tục hành chính; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để nhanh chóng triển khai phương thức quản lý hải quan, thuế hiện đại, đáp ứng các yêu cầu về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động tài chính, nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công việc, giảm thiểu số cán bộ kém chất lượng, đồng thời buộc cán bộ phải nâng cao trình độ, nghiệp vụ, kĩ năng làm công tác thuế, hải quan, đáp ứng yêu cầu ngày càng đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thời gian thu thuế và thời gian thông quan cho các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệm giảm được một số chi phí do thời gian nộp thuế và thông quan kéo dài gây ra.

Trong giai đoạn hiện nay, ưu tiêu các giải pháp chính sách, như: xem xét lại nguyên tắc trong chính sách tài chính, chuyển từ “lường chi để thu” sang nguyên tắc “lường thu để chi”; cải cách hệ thống thuế nhằm giảm bớt gánh nặng thuế khóa, tạo nguồn thu ngân sách ổn định và cân bằng, theo đó: nghiên cứu khả năng tăng thuế tiêu thu đặc biệt, thuế tài nguyên và thuế với bất động sản. Rà soát lại chính sách miễn giảm thuế với các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp FDI.

(2) Chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp phát triển. Các cơ quan chức năng cần rà soát, bổ sung và thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệ sản xuất kinh doanh để nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong ngắn hạn Chính phủ cần tiếp tục hỗ trợ đối với những ngành dệt may, da giầy, ô tô, điện tử, chế biến nông, lâm, thủy sản. Về trung và dài hạn, cần có chiến lược hỗ trợ những ngành công nghệ cao, những ngành mà trong chiến lược phát triển kinh tế hướng ra xuất khẩu, thông qua công cụ thuế, những rào cản kỹ thuật để bảo hộ những sản phẩm trong nước một cách hợp pháp.

Cần rà soát, bổ sung và thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng cho doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV

(3) Phát triển bền vững thị trường tài chính. Thúc đẩy sự phát triển của hệ thống các thị trường tài chính trên cơ sở đa dạng hóa các định chế tài chính, các hàng hóa trên thị trường tài chính. Cơ cấu lại thị trường chứng khoán đảm bảo sự phát triển đồng bộ, cân đối giữa thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh để mở rộng thêm kênh huy động vốn cho phát triển các ngành kinh tế. Việt Nam, cần hết sức thận trọng với thị trường chứng khoán khi lên xuống thất thường, thị trường đồng tiền ảo, bởi trình độ dân trí Việt Nam còn thấp, kém; người dân chưa am hiểu về thị trường chứng khoán và thường hùa theo tâm lý đám đông nên dễ bị các nhà đầu tư nước ngoài dẫn dắt, dẫn đến sự thiệt hại cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ, mà hậu quả làm thiệt hai chung cho cả nền kinh tế.

Vì vậy, Chính phủ cần tiếp tục rà soát và tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách tài chính, nhất là cần hỗ trợ và giám sát các thị trường tài chính hoạt động một cách lành mạnh, giảm thiểu sự thiệt hại cho các nhà đầu tư để khuyến khích và đảm bảo an toàn cho sự tham gia của các thành phần kinh tế trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế. Muốn vậy, cần rà soát và hoàn thiện các cơ chế tài chính đặc thù áp dụng cho các vùng kinh tế, nhất là vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực để các vùng kinh tế phát huy được tiểm năng, lợi thế phát triển tốt nhất.

(4) Hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh mới. Thực tế, hơn 30 năm qua, Việt Nam đã quá chú trọng vào phát triển số lượng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mà ít chú trọng đến chất lượng, hiệu quả của các dự án đầu tư, dẫn đến tình trạng rất nhiều doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam với công nghệ và máy móc lạc hậu, sử dụng nhiều lao động phổ thông, tạo ra giá trị gia tăng thấp, sản phẩm hầu như không có sức cạnh tranh trên các thị trường khó tính, đồng thời gây ô nhiễm nặng nề, chiếm dụng nhiều diện tích đất đai, nhất là những vùng thâm canh nông nghiệp.

Để dần khắc phục tình trạng nêu trên, Nhà nước cần hoàn thiện và điều chỉnh chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cần có chính sách ưu tiên cho các dự án đầu tư vào khu vực công nghiệp chế biến, lĩnh vực công nghệ cao và các lĩnh vực công nghiệp có khả năng tạo giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế nhưng vẫn đảm bảo sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên quốc gia và bảo vệ môi trường. Muốn vậy, cần nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đầu tư và thực hiện quản lý đầu tư theo quy hoạch; thực hiện rà soát, đánh giá thực trạng và kết quả cụ thể của công tác quy hoạch một số ngành then chốt (giao thông, thuỷ lợi, y tế, giáo dục…) cũng như quy hoạch phát triển các vùng kinh tế trên phạm vi cả nước, để có quy hoạch tổng thể, đồng bộ về ngành, lĩnh vực và vùng miền. Trên cơ sở đó, đưa ra một số danh mục dự án đầu tư quan trọng trên phạm vi cả nước để làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đầu tư trung và dài hạn và đảm bảo việc thực hiện trên thực tế được gắn với kế hoạch này. Đồng thời, phải tăng cường kỷ cương trong việc thực hiện quy hoạch, dự án. Nâng cao chất lượng của công tác quản lý, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, đảm bảo các dự án đầu tư phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch đất đai, quy hoạch xây dựng phù hợp với xu thế phát triển mới của nền kinh tế trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư phát triển nhanh chóng.

(5) Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước. Đẩy mạnh việc đổi mới, sắp xếp, cổ phần hóa để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện quyết liệt và hiệu quả cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh của các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nước; phân định rõ các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với các hoạt động công ích.

Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương làn thứ năm (khóa XII), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định “cần tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo cơ cấu lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước để doanh nghiệp nhà nước thực sự phát huy được vai trò, vị trí then chốt trong khu vực kinh tế Nhà nước, là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế Nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Nghiêm túc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách, biện pháp mới, có tính đột phá vừa được Trung ương nhất trí cao thông qua” (Nguyễn Phú Trọng, 2017). Theo đó, cần đẩy mạnh chuyển đổi hầu hết các doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp có cơ cấu sở hữu hỗn hợp, chủ yếu là doanh nghiệp cổ phần, niêm yết trên thị trường chứng khoán, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu. Thực hiện công khai, minh bạch, theo cơ chế thị trường, chủ yếu thông qua thị trường chứng khoán việc thoái vốn tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn nhà nước hoặc không cần tham gia đầu tư để tập trung vốn cho đầu tư phát triển các công trình, dự án quan trọng khác thuộc những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh, những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Tập trung xử lý dứt điểm các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp, các dự án, công trình đầu tư không hiệu quả, thua lỗ kéo dài, kể cả bằng biện pháp giải thể, phá sản.

Cơ cấu lại, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; thật sự hoạt động theo cơ chế thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật; đảm bảo công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội do Nhà nước giao được triển khai theo cơ chế Nhà nước đặt hàng, lựa chọn cạnh tranh, công khai; xác định rõ giá thành, chi phí thực hiện, trách nhiệm và quyền lợi của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước để đảm bảo không làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp nhà nước đang được giao quản lý, khai thác các công trình, dự án kết cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, khi cổ phần hoá, Nhà nước kiểm soát theo nguyên tắc: (i) Nhà nước thống nhất sở hữu các công trình hạ tầng quan trọng; (ii) doanh nghiệp cổ phần hoá, nhà đầu tư nhận quyền khai thác chỉ được quyền quản lý, vận hành, khai thác các công trình, dự án kết cấu hạ tầng; (iii) việc lựa chọn nhà đầu tư, doanh nghiệp phải thực hiện theo Luật Đấu thầu (năm 2013), công khai, minh bạch; (iv) đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản Nhà nước. Tách bạch, phân định rõ chức năng quản lý nhà nước đối với mọi loại hình doanh nghiệp nói chung với chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước và cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp, cũng như với chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước nói riêng.

Kiên quyết đấu tranh và có biện pháp phòng ngừa, khắc phục tình trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước móc ngoặc với cán bộ, công chức Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân để hình thành “nhóm lợi ích”, “sân sau” thao túng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, trục lợi cá nhân, tham nhũng, lãng phí, gây tổn hại cho Nhà nước và doanh nghiệp. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của tập thể và cá nhân chủ tịch, thành viên hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, người đại diện phần vốn của Nhà nước, ban điều hành trong hệ thống quản trị, điều hành doanh nghiệp.

Người đứng đầu doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm trực tiếp trước pháp luật và Nhà nước về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. Ban kiểm soát, kiểm soát viên phải thực sự là công cụ giám sát hữu hiệu của chủ sở hữu, hoạt động độc lập và không chịu sự chi phối vô lý nào về lợi ích của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị và ban điều hành của doanh nghiệp. Tổng giám đốc và các thành viên ban điều hành của doanh nghiệp nhà nước do hội đồng thành viên, hội đồng quản trị bổ nhiệm và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật và hợp đồng lao động.

Hoàn thiện các hệ thống khuyến khích, đòn bẩy kinh tế đi đôi với việc nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương đối với lãnh đạo, quản lý và người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện rộng rãi cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm qua thi tuyển cạnh tranh, công khai, minh bạch đối với tất cả các chức danh quản lý, điều hành và các vị trí việc làm khác trong doanh nghiệp nhà nước...

Hiện nay, Chính phủ đã thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước quản lý với số vốn trên 5 triệu tỷ đồng ngân sách của Nhà nước. Do đó, Chính phủ cần phải xây dựng một cơ chế kiểm soát, giám sát hoạt động của Ủy ban này nhằm ngăn chặn những tiêu cực dễ sảy ra. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế điều hòa nguồn lực trong khu vực công nhằm tập trung nguồn lực để phát triển một số ngành kinh tế trọng điểm phù hợp với từng thời kỳ và khả năng của nền kinh tế; có chính sách để khơi thông và sử dụng hiệu quả lợi thế độc quyền tự nhiên, thương hiệu của doanh nghiệp nhà nước để phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; có cơ chế tài chính để gắn các nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu khoa học với các doanh nghiệp trong hoạt động nghiên cứu và phát triển; tập trung nguồn lực về tài chính và con người cho nghiên cứu phát triển, nghiên cứu ứng dụng, nâng cao năng suất lao động và tăng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Chính phủ cần chỉ đạo các cơ quan chức năng quyết liệt xử lý có kết quả những tồn tại về tài sản, tài chính, công nợ, xử lý lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; hoàn thành việc thoái vốn đã đầu tư ra ngoài ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính theo đề án tái cơ cấu đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; hoàn thiện bổ sung cơ chế chính sách về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tổng cục Thống kê (2005-2018). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội các năm từ 2005-2018

2. Ban Kinh tế Trung ương (2014). Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016) về đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, Hà Nội, tháng 3/2014

2. Nguyễn Đắc Hưng, Phùng Thế Đông (2018). Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nxb Quân đội nhân dân, 2018, 387 trang

3. Vũ Sỹ Cường (2016). Chính sách tài khóa và tăng trưởng kinh tế: Tổng hợp từ nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm, Hà Nội

4. Nguyễn Đình Cung (2019). Cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng giai đoạn 2016-2020: kết quả, vấn đề và giải pháp, Hà Nội

5. Nguyễn Phú Trọng (2017). Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bế mạc Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII), truy cập từ http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xii/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-be-mac-hoi-nghi-lan-thu-nam-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-565