Tại phiên họp thẩm định Quy hoạch vùng Tây Nguyên thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 diễn ra vào ngày 18/12/2023, Thứ trưởng Trần Quốc Phương cho biết việc lập Quy hoạch vùng Tây Nguyên thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2030 có ý nghĩa quan trọng trong việc cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 152/NQ-CP về Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị và là cơ hội để Chính phủ, các bộ, ngành, trung ương và các địa phương trong Vùng chủ động kiến tạo phát triển và tăng cường liên kết vùng trong thời gian tới.

Quy hoạch phải chỉ rõ các giải pháp mang tính đột phá để Tây Nguyên
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nêu rõ yêu cầu đặt ra đối với một quy hoạch vùng là giải quyết bài toán về quản lý, điều phối, kết nối vùng. Ảnh: VGP

“Trong quá trình lập quy hoạch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành và địa phương trong vùng; đồng thời, đã gửi xin ý kiến các Bộ, ngành, địa phương trong vùng và 9 địa phương liền kề, xin ý kiến Hội đồng điều phối vùng, khảo sát làm việc với 5 địa phương và trình thẩm định. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nhận được tổng cộng khoảng 372 ý kiến tham gia đối với quy hoạch; trong đó, đã cơ bản nghiên cứu tiếp thu, các ý kiến giải trình tập trung các nội dung cụ thể thuộc phạm vi của quy hoạch tỉnh, không thuộc phạm vi của quy hoạch vùng”. Thứ trưởng Trần Quốc Phương cho biết thêm.

Những điểm nghẽn trong phát triển cần được giải quyết trong Quy hoạch vùng Tây Nguyên

Tây Nguyên là vùng có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh; có điều kiện thuận lợi về khí hậu, đất đai cho phát triển nông nghiệp quy mô lớn; nhiều tiềm năng về năng lượng tái tạo. Đây cũng là vùng có vị trí quan trọng về môi trường sinh thái, đầu nguồn sinh thủy của các con sông lớn, diện tích rừng lớn; tài nguyên du lịch đa dạng gắn với thiên nhiên và văn hoá đặc sắc.

Tuy nhiên, Tây Nguyên nằm cách xa các trung tâm kinh tế lớn, cảng biển lớn, chủ yếu kết nối bằng các tuyến đường bộ với thời gian dài, chưa có mạng lưới đường cao tốc và đường sắt.

Trình độ phát triển kinh tế thấp, trung bình 6,2%/năm trong giai đoạn 2011-2020, đóng góp 3,1% vào tăng trưởng kinh tế cả nước. Hệ thống kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực thấp so với bình quân chung cả nước và các vùng khác, chênh lệch về trình độ sản xuất, tập quán của một số dân tộc. Tài nguyên rừng, đất, nước suy thoái nhanh, nhất là dưới tác động của biến đổi khí hậu. Chất lượng giáo dục, đào tạo, y tế vẫn là vùng trũng của cả nước.

Các vấn đề trọng tâm cần giải quyết trong Quy hoạch vùng Tây Nguyên là: Hoàn thiện hạ tầng kết nối trong và ngoài vùng; cơ chế quản lý khai thác tài nguyên, phối hợp liên ngành; mô hình và phương án tổ chức không gian phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cải thiện phúc lợi xã hội.

Để khắc phục các hạn chế trong phát triển của vùng, Quy hoạch lựa chọn kịch bản tốc độ tăng trưởng vùng Tây Nguyên giai đoạn 2021-2030 trung bình là 7,5%/năm, thu nhập bình quân đầu người khoảng 130 triệu đồng.

Tây Nguyên phát triển dựa trên kinh tế xanh; bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc; điểm đến du lịch đặc sắc; nông nghiệp hiệu quả cao, công nghệ cao, hữu cơ với một số sản phẩm có thương hiệu quốc tế gắn với trung tâm chế biến; ưu tiên phát triển bền vững công nghiệp khai thác, chế biến bauxite, cơ khí phục vụ nông nghiệp, thủy điện, năng lượng tái tạo.

Cơ bản hình thành hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng; nâng cấp hệ thống thiết chế văn hoá. Giải quyết căn bản vấn đề đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số. Bảo vệ, duy trì hệ sinh thái rừng, nhất là rừng đầu nguồn và đa dạng sinh học; bảo đảm an ninh nguồn nước. Quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững, ổn định.

Không gian phát triển của vùng được phân thành 3 tiểu vùng: Bắc Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai) với thế mạnh thuỷ điện, năng lượng tái tạo, du lịch sinh thái, chuyên canh dược liệu; Trung Tây Nguyên (Đắk Lắk) tập trung cho công nghiệp chế biến nông lâm sản, năng lượng tái tạo, thương mại – dịch vụ - logistics; Nam Tây Nguyên (Đắk Nông, Lâm Đồng) có lợi thế về du lịch sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao, khai thác và chế biến Bauxite.

Hệ thống đô thị của vùng Tây Nguyên dự kiến hình thành theo mô hình đa cực, với 3 hạt nhân là TP. Pleiku (Kon Tum), TP. Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), TP. Đà Lạt (Lâm Đồng), tăng tỷ lệ đô thị hoá lên.

Các khu dân cư nông thôn gắn với phát triển nông nghiệp hàng hóa lớn, công nghiệp chế biến và thị trường, điều kiện sản xuất từng tiểu vùng và địa phương.

Nguồn lực phân bổ cho vùng Tây Nguyên ưu tiên cho các hành lang kinh tế liên tỉnh; khu vực sản xuất nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn; đô thị trung tâm vùng và trung tâm các tỉnh; khu bảo tồn tự nhiên, duy trì đa dạng sinh học; khu du lịch quốc gia, có danh lam thắng cảnh quốc gia, di sản văn hoá quốc gia, quốc tế; khu vực có tiềm năng khai thác năng lượng tái tạo; các địa bàn khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số…

Để Tây Nguyên "thức giấc" với giá trị mới, theo kịp được những vùng khác

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nêu rõ yêu cầu đặt ra đối với một quy hoạch vùng là giải quyết bài toán về quản lý, điều phối, kết nối vùng; xử lý xung đột phát triển giữa các địa phương, tạo sức mạnh tổng hợp, những sản phẩm có tính chiến lược, đặc trưng của vùng, quốc gia; kết nối nội vùng và liên vùng.

"Quy hoạch phải chỉ rõ giải pháp mang tính đột phá, kết hợp tiềm năng, lợi thế với xu thế thời đại để Tây Nguyên "thức giấc" với giá trị mới, theo kịp được những vùng khác; đồng thời gìn giữ, bảo tồn những tài sản vô giá, trường tồn. Đây phải là quy hoạch mà người dân Tây Nguyên thấy được những vấn đề mới nhưng thiết thực, gần gũi", Phó Thủ tướng đặt vấn đề và mong muốn các uỷ viên phản biện, thành viên Hội đồng phân tích, làm rõ những nội dung cần hoàn thiện trong Quy hoạch hoặc tiếp tục nghiên cứu bài bản, đề xuất phương án giải quyết trong tương lai.

Yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đơn vị tư vấn tiếp thu tối đa, nghiêm túc các ý kiến tâm huyết, sâu sắc, cụ thể tại phiên họp để hoàn thiện Quy hoạch, Phó Thủ tướng nhấn mạnh giá trị độc đáo, vị trí, tầm quan trọng không thể thay thế của Tây Nguyên trong bảo tồn hệ sinh thái, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nước, đất đai phì nhiêu gắn với bản sắc văn hoá, con người vốn rất dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu, sức ép phát triển kinh tế, xã hội…

Phó Thủ tướng nêu rõ: Quy hoạch vùng Tây Nguyên cần tiếp cận bài bản, tổng thể, toàn diện và hiểu biết sâu sắc những giá trị độc đáo của Tây Nguyên, "giàu tiềm năng nhưng dễ tổn thương". Theo đó, cần ưu tiên khoanh định những giá trị độc đáo của Tây Nguyên (khí hậu, thiên nhiên, đa dạng sinh học, địa chất, nguồn nước văn hoá…) để bảo tồn, giữ gìn và hình thành những giá trị tài nguyên vô giá, trở thành nguồn lực phát triển độc đáo, nâng cao đời sống của người dân nhưng không phát triển nóng.

Quy hoạch không gian phát triển, đô thị, nông thôn giữ được bản sắc, hài hoà với địa hình, cảnh quan, làm định hướng cho hạ tầng kết nối giao thông theo hệ sinh thái, chuỗi giá trị, hành lang kinh tế trong nội vùng và liên vùng. "Mọi tuyến đường phải giảm tối đa tác động tới thiên nhiên", Phó Thủ tướng nói.

Trao đổi về một số ngành kinh tế mũi nhọn của Tây Nguyên, Phó Thủ tướng gợi mở nông nghiệp cần thay đổi theo hướng công nghệ cao, hữu cơ, sử dụng ít nước, gia tăng giá trị thông qua chế biến, hình thành những sản phẩm quốc gia; khuyến khích năng lượng tái tạo kết hợp thuỷ điện tích năng; phát triển kinh tế lâm nghiệp, thị trường tín chỉ carbon;...

Các dự án, chương trình ưu tiên trong Quy hoạch phải có tiêu chí rõ ràng, mang tính đột phá, tập trung vào các sản phẩm của vùng, mang tính chất định hình Tây Nguyên trong tương lai phục hồi, phát triển bền vững, có nền kinh tế xanh; bảo tồn môi trường, sinh thái và bản sắc văn hoá; ổn định về an ninh, quốc phòng.

Đồng thời, Tây Nguyên cần cơ chế, chính sách riêng để tạo chuyển biến căn bản trong quản lý đất đai, nguồn nước, giáo dục, y tế, thúc đẩy hạ tầng số phục vụ chuyển đổi xanh, chuyển đổi số…/.