Đó là quan điểm được GS. Tomonori Sudo khẳng định, khi chia sẻ kinh nghiệm của Nhật Bản về tăng trưởng xanh tại Diễn đàn Nghiên cứu Việt Nam - Nhật Bản, diễn ra ngày 15/2.

Diễn đàn do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) phối hợp với Trường Chính sách công - Đại học Tokyo (GraSPP) tổ chức, được sự tài trợ bởi Quỹ Quốc tế Toshiba (TIFO). Diễn đàn Nghiên cứu Việt Nam – Nhật Bản có chủ đề “Thúc đẩy hợp tác Nhật Bản – Việt Nam hướng tới tăng trưởng xanh sau dịch bệnh Covid-19”. Diễn đàn vinh dự được công nhận là sự kiện chính thức kỷ niệm 50 năm thiết lập ngoại giao giữa Nhật Bản và Việt Nam.

“Tăng trưởng xanh còn biết biến vốn môi trường thành vốn kinh tế và vốn xã hội
Phát biểu khai mạc Diễn đàn, TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng CIEM nhấn mạnh, Việt Nam ý thức được tầm quan trọng của việc tích cực hợp tác với các nước, bởi thích ứng và giảm nhẹ hệ lụy của biến đổi khí hậu không phải là trách nhiệm của riêng quốc gia nào.

Nhật Bản và Việt Nam cân nhắc 4 định hướng thúc đẩy hợp tác về tăng trưởng xanh

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng CIEM nhận định, trong những năm qua, thế giới đã phải đối mặt với những thách thức lớn, nghiêm trọng về môi trường, biến đổi khí hậu. Bối cảnh dịch Covid-19 càng khiến các nền kinh tế trên thế giới chung nhận thức về phải hành động nhanh và quyết liệt hơn, nhằm bảo vệ môi trường, hướng tới phát triển bền vững.

Là một trong số những quốc gia dễ bị tổn thương nhất bởi biến đổi khí hậu, Việt Nam đã rất chủ động đề ra nhiều giải pháp thích ứng, giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu. Tại Hội nghị COP26, Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ, trong đó bao gồm đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050. Ngoài ra, các cam kết về phát triển bền vững cũng đã được đưa vào các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như: CPTPP và EVFTA. Để thực hiện những cam kết đầy tham vọng đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một loạt văn bản, trong đó có Quyết định số 1658/2021/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và Quyết định số 882/2022/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030; Quyết định số 687/2022/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn; Nghị định số 08/2022/NĐ-CP hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường...

Việt Nam cũng tích cực hợp tác với các đối tác nước ngoài, nhằm thúc đẩy các lĩnh vực tăng trưởng xanh. Trong đó, hợp tác với Nhật Bản nói chung và về lĩnh vực tăng trưởng xanh nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam.

Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng trong hợp tác với Nhật Bản, đặc biệt trong các lĩnh vực đầu tư, xuất nhập khẩu, phát triển hạ tầng bền vững, phát triển nguồn nhân lực.

Nhật Bản là một đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Hợp tác kinh tế hai bên ngày càng đi vào chiều sâu, phát triển thực chất và ngày càng được tăng cường, mở rộng trong nhiều lĩnh vực, kể cả tăng trưởng xanh.

Làm rõ hơn vấn đề này, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp (CIEM) phân tích, Nhật Bản và Việt Nam còn nhiều tiềm năng để thúc đẩy hợp tác về tăng trưởng xanh. Hai nước đều là thành viên của CPTPP, hay Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF) đang trong quá trình đàm phán. Cả CPTPP và IPEF cùng có những nội dung hợp tác liên quan đến tăng trưởng xanh. Một số lĩnh vực chính có nhiều tiềm năng hợp tác giữa Nhật Bản và Việt Nam, bao gồm thiết bị điện và điện tử, kiến trúc bằng gỗ, điện gió, điện sinh khối, chia sẻ điện mặt trời, nuôi trồng thủy sản hữu cơ, canh tác hữu cơ...

Nhật Bản và Việt Nam có thể cân nhắc một số định hướng thúc đẩy hợp tác hướng tới tăng trưởng xanh. Thứ nhất, nâng cao năng lực thể chế, quy định, chính sách liên quan đến tăng trưởng xanh. Thứ hai, phát triển cơ sở hạ tầng bền vững ở Việt Nam. Thứ ba, hợp tác thúc đẩy chuỗi giá trị ít carbon/ít phát thải. Thứ tư, hợp tác, thúc đẩy xây dựng các điều ước quốc tế, quy tắc, tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến tăng trưởng xanh.

“Các bên liên quan của Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, mong đợi cơ hội hợp tác và chuyển giao công nghệ từ các đối tác Nhật Bản, nhưng cần tiếp tục cải thiện chất lượng kết nối dịch vụ từ trong nước (về hậu cần, kỹ thuật số và kỹ năng lao động)”, ông Dương lưu ý.

“Tăng trưởng xanh còn biết biến vốn môi trường thành vốn kinh tế và vốn xã hội
Toàn cảnh Diễn đàn - Ảnh: Lê Tiên

Tăng trưởng xanh là yếu tố sống còn

TS. Võ Trí Thành Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh cũng chỉ rõ rằng, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững và bao trùm là quá trình không hề dễ dàng và bước đầu đòi hỏi chi phí không nhỏ, ảnh hưởng ngay tới lợi ích trước mắt”.

Ông Thành một lần nữa chia sẻ lại quan điểm của Việt Nam tại COP27, đó là: "Để hoàn thành các mục tiêu phát triển của quốc gia, Việt Nam không thể đi một mình. Muốn đi xa phải có bạn". Vị chuyên gia này khẳng định, cần gắn phục hồi, vượt khó trước mắt với chuyển đổi xanh, thực hiện kinh tế tuần hoàn, nâng cao trách nhiệm xã hội. Chi phí chuyển đổi có thể cao, cả đối với nền kinh tế và doanh nghiệp.

Trích dẫn số liệu của Ngân hàng Thế giới, giá trị hiện tại của nhu cầu đầu tư thêm vào các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu từ nay đến năm 2040 của Việt Nam lên đến khoảng 6,8% GDP mỗi năm, tương đương khoảng 368 tỷ USD, ông Thành cho rằng, dù khó khăn, nhưng nguồn vốn để huy động cho tăng trưởng xanh là hoàn toàn có thể.

"Ví dụ ngoài ODA thì còn trái phiếu. Việt Nam đã xây dựng trung tâm tài chính quốc tế nhằm phát hành trái phiếu xanh. Hiện nay, thế giới có nhiều quỹ muốn đầu tư, nhưng Việt Nam cần phải có thực tế xanh; Tín dụng xanh ở Việt Nam cũng đang còn nhiều dư địa để tăng, vì trên thế giới tín dụng xanh tăng trưởng mấy chục % mỗi năm", ông Thành phân tích và đề xuất, vì quá trình chuyển đổi dài, Việt Nam cần tập trung nhiều lĩnh vực phát thải carbon cao để ưu tiên, như: giao thông, công nghiệp, rác thải, công tác quản trị, tiêu chí để đạt ít phát thải từ nay tới năm 2030-2045-2050.

Ông cũng chỉ rõ, thị trường đa số ngắn hạn, trong khi chi phí chuyển đổi cao, do vậy, áp lực thị trường và cuộc cách mạng công nghệ sẽ làm tăng năng lực đầu tư hiệu quả hơn.

Thuế carbon hoặc các quy định hình thành hệ thống mua bán khí thải sẽ là chìa khóa để Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển và khí hậu đầy tham vọng. Việt Nam cần triển hiệu quả thị trường tín chỉ carbon.

GS. Sudo Tomonori - Trường Phát triển bền vững và Du lịch (từ tháng 4/2023), Đại học Ritsumeikan châu Á Thái Bình Dương khẳng định, tăng trưởng xanh không chỉ là “bảo vệ môi trường” mà là “sử dụng môi trường bền vững cho tăng trưởng kinh tế và xã hội”. Đó là hướng tới mục tiêu tăng trưởng vốn kinh tế và xã hội, đồng thời đảm bảo tăng trưởng vốn môi trường.

Tăng trưởng xanh là yếu tố sống còn để bảo đảm một tương lai bền vững hơn và có thể mang lại lợi ích kinh tế và xã hội lớn theo thời gian.

“Tăng trưởng xanh không chỉ là không tác động đến môi trường, mà còn biết biến vốn môi trường thành vốn kinh tế và vốn xã hội”, GS. Tomonori Sudo đưa ra quan điểm.

Vì thế, chuyên gia này cho rằng, cần huy động đầu tư từ các nguồn khác nhau, mặc dù khả năng đáp ứng được yêu cầu vay là một yếu tố khó, nhưng các công ty hoặc định chế tài chính có thể thay đổi trước trong thẩm định cho vay (theo tiêu chuẩn ESG).

"Nếu định chế tài chính không thể thay đổi quy trình thẩm định, thì họ cần hỗ trợ chuyển đổi xanh. Các quốc gia phát triển cần thay đổi đầu tiên hướng tới tăng trưởng xanh", Giáo sư nhấn mạnh.

Vị chuyên gia này cho rằng, cần có một chương trình nghị sự chính sách song hành để hướng dẫn hành động quốc gia và quốc tế về tăng trưởng xanh ở các nước đang phát triển.

Ông Nguyễn Anh Dương cũng khẳng định, chi phí là yếu tố quan trọng để thực thi các dự án, tuy nhiên để thực hiện các dự án cần phải xây dựng khung pháp lý cơ bản.

"CIEM đang xây dựng mô hình kinh tế tuần hoàn, trong đó đưa ra những tiêu chí, khung chính sách thử nghiệm cơ chế kinh tế tuần hoàn", ông Dương cho biết./.