BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC

Tình hình kinh tế thế giới

Kinh tế thế giới không thuận lợi, đối mặt với lạm phát cao và rủi ro suy giảm tăng trưởng kinh tế. Đầu năm 2022, kinh tế thế giới hồi phục tốt khi dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát và hầu hết các nước dần mở cửa nền kinh tế. Tuy nhiên, khủng hoảng nổ ra tại Ukraine từ cuối tháng 2 và sau đó dịch Covid-19 bùng phát trở lại tại Trung Quốc đã tác động tiêu cực đến thị trường tài chính; các chuỗi sản xuất, cung ứng, giá cả hàng hóa toàn cầu; đe dọa ổn định vĩ mô, gây nguy cơ mất an ninh năng lượng, an ninh lương thực ở nhiều nước. Bên cạnh đó, lạm phát tăng mạnh tại hầu hết các nước và việc đồng USD tăng giá so với đa số các đồng tiền khác, nên buộc ngân hàng trung ương các nước phải liên tục tăng lãi suất lên mức cao kỷ lục so với nhiều năm và can thiệp vào thị trường ngoại hối. Điều này khiến kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại, thậm chí suy thoái nhẹ, đặc biệt là ở một số nền kinh tế đầu tàu, như: Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc, làm suy giảm sức cầu thế giới, kéo theo sự đình trệ của khu vực sản xuất. Trong bối cảnh đó, các tổ chức quốc tế, như: Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)…, đều hạ triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu so với các dự báo trước đó; trong đó GDP toàn cầu dự báo sẽ chỉ tăng trưởng khoảng 3% trong năm 2022 (so với mức tăng 6% của năm 2021).

Ngược lại, tình trạng lạm phát tăng cao lên mức kỷ lục trong vòng 40 năm qua đang là khó khăn lớn nhất cho các nền kinh tế, khiến các ngân hàng trung ương phải nhiều lần liên tiếp nâng lãi suất để kiểm soát lạm phát, chấp nhận mức tăng trưởng kinh tế thấp hơn. Trong đó, những nền kinh tế hàng đầu, như: Mỹ và EU đã phải nhiều lần tăng lãi suất, kéo theo tác động tiêu cực với kinh tế thế giới và hoạt động điều hành tỷ giá, lãi suất của các nước. Mỹ (từ tháng 5/2022 đến nay) đã 7 lần tăng lãi suất, lên mức 4,25%-4,5%; trong đó, có 4 lần liên tiếp gần nhất tăng lãi suất ở mức 0,75% và dự kiến tiếp tục tăng lãi suất trong năm 2023. Tương tự, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cũng đã phải 4 lần nâng lãi suất từ tháng 7 đến tháng 12, qua đó đưa lãi suất tham chiếu từ mức 0% (hồi đầu năm) lên hiện nay là 2% và là mức cao nhất kể từ năm 2009. Trong khi đó, Ngân hàng trung ương Anh (BOE) đã 9 lần nâng lãi suất trong năm 2022, lên mức 3,5% trong tháng 12/2022.

Thách thức cho bài toán tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2023
Mỹ (từ tháng 5/2022 đến nay) đã 7 lần tăng lãi suất, lên mức 4,25%-4,5%; trong đó, có 4 lần liên tiếp gần nhất tăng lãi suất ở mức 0,75% và dự kiến tiếp tục tăng lãi suất trong năm 2023 (ảnh: VGP)

Thực trạng trên tác động mạnh đến thị trường tài chính quốc tế, khi giá trị đồng USD đã tăng giá đáng kể so với đồng tiền các nước khác, xuất khẩu lạm phát sang các nước và cuốn các nước vào cuộc đua nâng lãi suất, phá giá đồng nội tệ trong bối cảnh lạm phát vẫn chưa thể kiểm soát. Cụ thể, Chỉ số đồng Đô la Mỹ - DXY (thể hiện giá trị đồng USD) đã tăng 8%-9% so với đầu năm 2022, nhưng đã có những biến động mạnh từ giữa tháng 9 đến đầu tháng 11, khi tăng 15%-20% so với đầu năm 2022. Ngược lại, trong cùng thời gian này, đồng tiền các nền kinh tế khác đều mất giá kỷ lục trong nhiều năm, như: EUR (-16,84% so với đồng USD đầu năm 2022), CNY (-11,64%), GBP (-16,84%), JPY (-29,69%)… Vào tháng 12/2022, các đồng tiền vẫn đang mất giá so với đồng USD, nhưng ở mức thấp hơn trước, như: EUR (-6,5%), JPY (-20%), CNY (-10%)…

Dự báo, năm 2023, ngân hàng trung ương các nước tiếp tục xu hướng tăng lãi suất, nhưng với tần suất và mức độ nhẹ hơn và có thể sẽ dừng lại vào cuối quý I hoặc quý II/2023, tùy thuộc vào hiệu quả đối với việc kiềm chế lạm phát, cũng như tác động của việc nâng lãi suất đối với hoạt động của các doanh nghiệp, cũng như tăng trưởng kinh tế. Dự báo, năm 2023, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tăng lãi suất lên mức khoảng 5%-5,25% trong quý I/2023, sau đó dừng lại; trong khi ECB có thể tăng lãi suất lên mức khoảng 2,25%-2,5% đến giữa năm 2023 và có thể dừng lại sau đó.

Trong bối cảnh hiện nay, cùng với chính sách tài khóa thắt chặt, kiểm soát lạm phát thông qua công cụ lãi suất của các nền kinh tế lớn, các tổ chức quốc tế đánh giá triển vọng tăng trưởng kinh tế thế giới vẫn còn khó khăn, lạm phát sẽ vẫn ở mức cao trước khi có thể kiểm soát và giảm dần từ nửa cuối năm 2023. Cụ thể, tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự kiến giảm mạnh từ 6% năm 2021 xuống khoảng 3% trong năm 2022 và 2,2%-2,5% trong năm 2023; trong khi đó, dự báo lạm phát tiêu dùng (CPI) toàn cầu năm 2022 tăng lên mức 8,8%, trước khi giảm xuống mức 6,5% trong năm 2023. Chỉ số DXY đang giảm, nhưng vẫn tăng gần 9% so với đầu năm 2022 và có thể giảm nhẹ trong năm 2023. Đồng tiền các nước mất giá khoảng 5%-10% so với USD (tùy theo từng nền kinh tế) trong năm 2022, nhưng đa số các đồng tiền này sẽ tăng giá trở lại trong năm 2023.

Tình hình kinh tế Việt Nam

Kinh tế Việt Nam năm 2022 khởi sắc mạnh mẽ, toàn diện ở tất cả các ngành, lĩnh vực nhờ hiệu quả trong kiểm soát đại dịch Covid-19, Chính phủ đã phản ứng nhanh chóng và ban hành nhiều chính sách điều hành linh hoạt nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhờ đó, kinh tế Việt Nam trở thành điểm sáng của thế giới với mức tăng trưởng ấn tượng, kiểm soát lạm phát tốt cùng nhiều chỉ tiêu kinh tế vĩ mô tích cực, ổn định.

Thứ nhất, GDP tăng trưởng tốt, đạt 8,02% cả năm 2022, cao hơn mục tiêu 6,5%, và là mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011-2022 cho thấy, sự phục hồi mạnh mẽ của kinh tế Việt Nam. Mức tăng trưởng cao trong năm nay có sự đóng góp toàn diện từ các khu vực, như: Nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,36%, đóng góp 5,11% vào mức tăng trưởng chung; Công nghiệp và xây dựng tăng 7,78%, đóng góp 38,24%; Dịch vụ tăng 9,99%, đóng góp 56,65%. Các động lực tăng trưởng chính đều phục hồi mạnh mẽ. Cả năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt gần 733 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm trước. Cán cân thương mại thặng dư 11,2 tỷ USD, góp phần ổn định tỷ giá và các cân đối vĩ mô khác. Vốn đầu tư công thực hiện tăng 18,8%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giải ngân tăng 13,5%, đầu tư tư nhân tăng khoảng 9%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 19,8% (loại trừ yếu tố giá tăng 15,6%), giúp tiêu dùng cuối cùng tăng 7,2%…

Thách thức cho bài toán tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2023
GDP tăng trưởng 8,02% trong năm 2022, cao hơn mục tiêu 6,5%, và là mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011-2022 cho thấy, sự phục hồi mạnh mẽ của kinh tế Việt Nam

Thứ hai, lạm phát được kiểm soát dù áp lực ngày một gia tăng. CPI bình quân năm 2022 tăng 3,15% (cao hơn so với mức tăng 1,84% của năm 2021) song vẫn thấp hơn mức mục tiêu khoảng 4%. Bình quân năm 2022, lạm phát cơ bản tăng 2,59% (cao hơn mức 0,81% của năm 2021) cho thấy, áp lực lạm phát chi phí đẩy ngày càng tăng khi giá hàng hóa thế giới chưa hạ nhiệt, vẫn đứng ở mức cao và mức tăng cao của giá nhập khẩu (cộng hưởng với đà tăng tỷ giá) phản ánh rõ hơn vào giá tiêu dùng.

Thứ ba, kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt mức kỷ lục trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn, cán cân thương mại thặng dư. Năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm trước, vượt mục tiêu tăng 8%. Trong đó, kim ngạch xuất, nhập khẩu lần lượt ước đạt 371,85 tỷ và 360,65 tỷ USD, tương ứng tăng 10,6% và 8,4%. Cán cân thương mại thặng dư 11,2 tỷ USD; là năm thứ 7 Việt Nam xuất siêu liên tục, xuất nhập khẩu đều tăng cao cho thấy, vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thâm hụt cán cân thương mại dịch vụ (khoảng 12,6 tỷ USD), với xuất khẩu dịch vụ đạt 12,9 tỷ USD, tăng 145,2% so với năm 2021, trong khi nhập khẩu dịch vụ đạt 25,5 tỷ USD, tăng 23,6% so với năm trước.

Thứ tư, hoạt động của doanh nghiệp tiếp tục có nhiều khởi sắc nhờ các hoạt động kinh tế - xã hội được mở rộng, dù các khó khăn, thách thức đang ngày càng tăng. Trong bối cảnh rủi ro bên ngoài tăng, khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn, lãi suất cho vay và tỷ giá tăng, gia tăng gánh nặng trả nợ, chi phí sản xuất gia tăng, đầu ra cho tiêu thụ hàng hóa (nhất là xuất khẩu) đang bị thu hẹp…, song số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới hoặc quay trở lại hoạt động đều tăng. Năm 2022, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 27,1% và số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 38,8%. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp tạm thời đóng cửa kinh doanh tăng 34,3% cho thấy, phục hồi không đồng đều và một số lĩnh vực, ngành nghề còn nhiều khó khăn.

Thứ năm, các tổ chức quốc tế và định hạng tín nhiệm quốc tế đánh giá cao nỗ lực phục hồi, ổn định vĩ mô và tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của Việt Nam. Theo đó, S&P (vào tháng 5/2022) nâng hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên mức BB+ (từ mức BB), với triển vọng ổn định. Còn Moody’s (vào tháng 9/2022) cũng nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, triển vọng ổn định. Fitch Ratings (vào tháng 10/2022) xếp hạng nhà phát hành ngoại tệ dài hạn của Việt Nam ở mức BB với triển vọng tích cực. Các tổ chức quốc tế khác, như: IMF, WB, ADB…, đều đánh giá tích cực nền kinh tế Việt Nam, với mức tăng trưởng 8% trong năm 2022 và khoảng 6%-6,5% trong năm 2023, đánh giá cao Việt Nam kiểm soát tốt các cân đối vĩ mô.

Về triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2023

Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái cục bộ, lạm phát và tỷ giá còn diễn biến khó lường; song các chương trình phục hồi kinh tế được thực hiện đúng tiến độ, đúng đối tượng, dự báo kinh tế Việt Nam tiếp tục đà phục hồi tích cực, lạm phát và tỷ giá có sự tăng nhẹ nhưng ở trong tầm kiểm soát. Cụ thể, trong năm 2023, tăng trưởng GDP dự kiến sẽ đạt 6%-6,5%; tỷ lệ lạm phát ở mức 4%-4,5%; tỷ giá tăng 3%-4% trong cả 2 năm 2022 và 2023.

NHỮNG RỦI RO, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI KINH TẾ VIỆT NAM TRONG NĂM 2022 VÀ KÉO DÀI SANG NĂM 2023

Trong bối cảnh quốc tế bất ổn kéo dài, thị trường hàng hóa, tài chính và thương mại quốc tế dự báo tiếp tục có nhiều biến động khó lường, kinh tế Việt Nam năm 2023 được nhận định sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức hơn, khiến chỉ tiêu tăng trưởng GDP 6%-6,5% và CPI bình quân ở mức 4,5% trong năm 2023 sẽ là thách thức lớn, đòi hỏi nhiều nỗ lực mới đạt được. Có thể nhận diện những rủi ro, thách thức chính đối với kinh tế Việt Nam trong năm 2023 như sau:

Một là, môi trường quốc tế có xu hướng xấu đi, rủi ro, thách thức từ bên ngoài vẫn hiện hữu và có những tác động tiêu cực rõ nét hơn. Đó là: (1) Khủng hoảng địa chính trị tại Ukraine dai dẳng, kéo dài và ngày càng phức tạp, khó đoán định; (2) Đại dịch Covid-19 chưa chính thức kết thúc và kinh tế Trung Quốc vẫn gặp nhiều khó khăn sau khi nới lỏng chính sách kiểm soát Covid-19 (từ đầu tháng 12/2022); (3) Lạm phát toàn cầu đã qua đỉnh, nhưng vẫn ở mức cao do giá cả các mặt hàng thiết yếu, như: năng lượng, lương thực... dù giảm, nhưng vẫn ở mức cao; (4) Thị trường tài chính và tiền tệ quốc tế biến động mạnh, thanh khoản eo hẹp hơn, dư địa chính sách tài khóa và tiền tệ đang bị thu hẹp tại hầu hết các nền kinh tế; (5) Ba đầu tàu của kinh tế thế giới (Mỹ, EU và Anh Quốc) dự báo tăng trưởng chậm lại trong năm 2023, thậm chí có thể rơi vào suy thoái kỹ thuật, trước khi hồi phục từ năm 2024, trong khi Trung Quốc chưa thể tăng trưởng cao; (6) Các tranh chấp, căng thẳng thương mại, công nghệ giữa các nước có dấu hiệu tăng trở lại thời kỳ hậu Covid-19; (7) Các rủi ro khác (biến đổi khí hậu, thiên tai, các loại dịch bệnh khác...) vẫn phức tạp, khó lường.

Những yếu tố rủi ro trên, nhất là nguy cơ suy thoái kinh tế toàn cầu, Trung Quốc còn nhiều khó khăn và thị trường tài chính, tiền tệ tiềm ẩn rủi ro đã và đang tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam, nhất là xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng và du lịch quốc tế, khiến mục tiêu tăng trưởng 6,5% là rất thách thức. Thực tế, một số động lực cho tăng trưởng (xuất khẩu, sản xuất công nghiệp…) mặc dù vẫn tăng, song có dấu hiệu chậm lại khi các điều kiện kinh doanh xấu đi và nhu cầu thế giới suy giảm mạnh, đơn hàng sụt giảm, trong khi chi phí đầu vào vẫn ở mức cao và thiếu hụt nguồn cung nguyên vật liệu. Cụ thể: (1) Hoạt động xuất khẩu có xu hướng tăng chậm lại khi kim ngạch xuất khẩu lũy kế 8 tháng đầu năm 2022 tăng 18,2% (so với cùng kỳ năm trước), nhưng chỉ tăng 10,6% trong cả năm 2022; (2) Hoạt động của khu vực sản xuất suy giảm trong tháng 11, khi chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam chỉ đạt 47,4 điểm trong tháng 11, ghi nhận mức tiêu cực (dưới 50 điểm) lần đầu tiên kể từ tháng 10/2021; (3) Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) quý IV chỉ tăng 3% - mức tăng thấp nhất so với 3 quý trước của năm (lần lượt là 6,8%, 9,8% và 10,9%), khiến IIP cả năm 2022 chỉ tăng 7,8%, cho thấy sản xuất công nghiệp có dấu hiệu chững lại.

Hai là, giải ngân đầu tư công, các chương trình mục tiêu quốc gia và Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội các năm 2022-2023 đang chậm tiến độ so với kế hoạch. Nguyên nhân chính gây khó khăn cho hoạt động giải ngân vốn đầu tư công và Chương trình phục hồi còn chậm là do: (i) Chính quyền địa phương chưa quan tâm đúng mức, còn ngại rủi ro, còn phát sinh thêm thủ tục, còn cứng nhắc…; (ii) Các ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong xác định đối tượng được hỗ trợ lãi suất đối với một số trường hợp khách hàng kinh doanh đa ngành; việc đánh giá khả năng phục hồi còn khó khăn, thiếu nhất quán; khách hàng có tâm lý sợ thanh, kiểm tra sau khi giải ngân; (iii) Khâu chuẩn bị thực hiện các dự án đầu tư công chưa tốt và còn nhiều điểm bất cập so với Luật Đầu tư công.

Ba là, áp lực lạm phát còn tăng, lãi suất ở mức cao và áp lực tỷ giá biến động vẫn là thách thức lớn trong năm 2023. So với nhiều nước, lạm phát, tỷ giá và lãi suất của Việt Nam tăng chậm hơn, vẫn trong tầm kiểm soát, song cần theo dõi chặt chẽ do: (1) Giá năng lượng, hàng hóa thế giới vẫn đứng ở mức cao; (2) Tỷ giá tăng gây áp lực tăng giá hàng hóa, dịch vụ trong nước khi nhiều mặt hàng và nguyên vật liệu sản xuất phải nhập khẩu bằng USD; (3) Việc điều chỉnh tiền lương cơ sở (dự kiến tăng gần 21%) được áp dụng trong năm 2023, gây áp lực lạm phát; (4) Một số mặt hàng, dịch vụ do Nhà nước quản lý, như: điện, giáo dục, y tế... đang trong lộ trình tăng giá; (5) Tình trạng khan hiếm hàng hóa cục bộ có thể xảy ra nếu không được giải quyết kịp thời (nhất là xăng dầu, thuốc men, thiết bị y tế…); (6) Fed có khả năng tiếp tục tăng lãi suất đến hết quý I/2023, các ngân hàng trung ương lớn khác còn tăng lãi suất đến giữa năm 2023, trong khi dư địa chính sách tiền tệ của Việt Nam đang hẹp dần; (7) Áp lực đối với thanh khoản của các tổ chức tín dụng còn khá lớn, khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) kiểm soát cung tiền nhằm kiềm chế lạm phát, bình ổn tỷ giá. Năm 2022, tăng trưởng tín dụng ước đạt khoảng 14%, trong khi huy động vốn ước tăng khoảng 7%, nhu cầu thanh toán cuối năm, dịp Tết Quý Mão - 2023 tăng; áp lực đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp khá lớn trong năm 2023-2024. Vì vậy, ổn định được mặt bằng lãi suất và tỷ giá tăng ít hơn so với năm 2022 đã là thành công trong năm 2023.

Bốn là, một số thị trường then chốt, như: tiền tệ, chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản và lao động... đang bộc lộ rủi ro, thanh khoản eo hẹp hơn; vốn cho doanh nghiệp khó tiếp cận hơn, đang là thách thức đặt ra. Chính phủ, các cơ quan quản lý đã nhận diện và quyết tâm chấn chỉnh, khắc phục và lành mạnh hóa; được kỳ vọng tốt lên trong thời gian tới.

Thách thức cho bài toán tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2023
Theo NHNN, hiện tỷ lệ nợ xấu hệ thống ngân hàng vẫn trong tầm kiểm soát (ảnh: sbv)

Năm là, nợ xấu tiềm ẩn vẫn là thách thức. Theo NHNN, hiện tỷ lệ nợ xấu hệ thống ngân hàng vẫn trong tầm kiểm soát. Tuy nhiên, trong bối cảnh tác động của thời kỳ hậu đại dịch Covid-19, kinh tế thế giới đang xấu đi, mặt bằng lãi suất cho vay và tỷ giá chịu nhiều áp lực tăng, nghĩa vụ trả nợ tăng (gồm cả trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn), khiến doanh nghiệp ở một số lĩnh vực gặp khó khăn, nhất là sau khi Thông tư số 14/2021/TT-NHNN, ngày 07/09/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN, ngày 13/3/2020 của NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, đã hết hạn vào ngày 30/6/2022. Theo đó, nợ xấu nội bảng của hệ thống ngân hàng năm 2022 tăng và ở mức 2%, trong khi nợ xấu gộp ở mức khoảng 4%. Nợ xấu có thể còn tăng trong năm 2023, khi kinh tế Việt Nam năm nay dự báo khó khăn hơn, thanh khoản nền kinh tế, thị trường bất động sản còn khó khăn và cần thời gian để khắc phục.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHO NĂM 2023

Để hạn chế tác động tiêu cực, tạo điều kiện đảm bảo kiềm chế lạm phát, đảm bảo ổn định vĩ mô, đồng thời tiếp tục hỗ trợ phục hồi, phát triển kinh tế trong năm 2023, cần triển khai các giải pháp đồng bộ như sau:

Thứ nhất, tiếp tục bám sát tình hình kinh tế, tài chính quốc tế; chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế để có kịch bản chủ động ứng phó phù hợp; triển khai các giải pháp kịp thời, hiệu quả.

Thứ hai, phối hợp hài hòa các chính sách kinh tế vĩ mô, cân bằng giữa kiểm soát lạm phát và tăng trưởng; giữa lãi suất và tỷ giá; giữa cân đối ngân sách và hỗ trợ người dân, doanh nghiệp; giữa đầu tư công, FDI và đầu tư tư nhân trong bối cảnh đầu tư tư nhân tăng khá thấp so với 2 kênh dẫn vốn còn lại.

Thứ ba, đẩy nhanh triển khai Chương trình phục hồi và các chương trình mục tiêu quốc gia (nhất là các cấu phần còn bị chậm) và giải ngân đầu tư công tạo động lực tăng trưởng; quyết liệt cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, giảm thiểu thủ tục hành chính nhằm tận dụng cơ hội dịch chuyển chuỗi cung ứng, kiến tạo thúc đẩy đầu tư trong và ngoài nước, tăng năng suất và giảm chi phí sản xuất, kinh doanh.

Thứ tư, nâng cao hơn nữa hiệu quả điều hành chính sách kinh tế với các trọng tâm: (i) Tăng cường kiểm soát rủi ro vĩ mô (đặc biệt là các thị trường: trái phiếu doanh nghiệp, chứng khoán, bất động sản và các mặt hàng: xăng dầu, thuốc men…); (ii) Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chặt chẽ, chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ nhằm bình ổn tỷ giá, lãi suất, điều hành tín dụng ở mức phù hợp; (iii) Tập trung phát huy vai trò chủ lực của chính sách tài khóa và giải ngân vốn đầu tư công trong năm 2023, nhằm tiếp tục hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng trong bối cảnh dư địa chính sách tiền tệ hẹp dần và thu thuế sẽ khó khăn hơn.

Thứ năm, thực hiện các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp chịu tác động tiêu cực từ suy giảm xuất khẩu và biến động mạnh lãi suất, tỷ giá, như: tiếp tục chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy xuất khẩu, đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu; điều hành chính sách tiền tệ (tỷ giá, lãi suất) cơ bản ổn định, có khả năng dự báo; tiếp tục đẩy mạnh cải thiện thực chất môi trường đầu tư, kinh doanh, thể chế theo các cam kết hội nhập…

Thứ sáu, đẩy nhanh hoàn thiện thể chế, cải thiện mạnh mẽ và thực chất hơn môi trường đầu tư, kinh doanh để tháo gỡ vướng mắc lớn hiện tại (như pháp lý đất đai, bất động sản, vốn…) và thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, mô hình kinh doanh mới; đồng thời đẩy nhanh cơ cấu lại nền kinh tế nhằm huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn.

Thứ bảy, chủ động xây dựng chiến lược, giải pháp cụ thể để tăng tính độc lập, tự chủ, tự cường và nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế, của các ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp Việt Nam…/.

TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV và Nhóm chuyên gia Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV

(Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 01+02 tháng 01/2023)