Giải trình trước Quốc hội về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2019, dự toán ngân sách nhà nước năm 2020 và kế hoạch tài chính 3 năm 2020-2022 trong phiên thảo luận tại Hội trường, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, dự toán thu nội địa năm 2020 ở mức 83,6% tổng thu ngân sách nhà nước.

2019 là năm thứ hai liên tiếp vượt thu ngân sách trung ương

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, 4 năm qua, thu ngân sách nhà nước đều vượt dự toán, trong đó, năm 2019 là năm thứ hai liên tiếp vượt thu của ngân sách trung ương.

Các chỉ tiêu tổng thu, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước và cơ cấu thu nội địa cơ bản đạt mục tiêu của kế hoạch 5 năm. Trong đó, tổng thu 5 năm ước đạt 6,8 triệu tỷ đồng, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt 24,4% GDP, từ thuế, phí xấp xỉ 21% GDP, tỷ trọng thu nội địa đến năm 2020 đạt gần 84% trong tổng thu ngân sách nhà nước.

Cơ cấu chi ngân sách nhà nước được chuyển dịch tích cực, các chỉ tiêu cơ bản đều vượt kế hoạch 5 năm, trong đó tỷ trọng dự toán chi đầu tư phát triển tăng dần, dự toán năm 2017 là 25,7%, đến năm 2020 chi cho đầu tư phát triển theo dự toán là 26,9% và thực hiện 5 năm ước đạt 27 đến 28% tổng chi ngân sách nhà nước, trong khi mục tiêu đề ra của chúng ta là 25-26%. Tổng chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước 5 năm ước đạt thực tế là 2 triệu 150 ngàn tỷ đồng, bao gồm cả nguồn tăng thu của ngân sách nhà nước vượt mức kế hoạch đề ra là 2 triệu.

Bộ trưởng cũng cho biết, tỷ trọng dự toán chi thường xuyên giảm dần, dự toán năm 2017 là 64,4% đến năm 2020 dự kiến là 60,5% nếu được Quốc hội thông qua.

Mục tiêu của kế hoạch là dưới 64%, trong khi vẫn đảm bảo nguồn thực hiện cải cách tiền lương tăng khoảng 7%/năm theo Nghị quyết của Quốc hội và các nhiệm vụ chi cho quốc phòng, an ninh, chính sách an sinh xã hội cấp thiết khác.

Dự toán chi thường xuyên giao cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã được xây dựng trên cơ sở yêu cầu sắp xếp lại tổ chức bộ máy, giảm biên chế, đẩy mạnh tự chủ của đơn vị sự nghiệp, qua đó cơ cấu lại nguồn để ưu tiên bố trí thực hiện cải cách tiền lương và các chính sách an sinh xã hội.

“Lũy kế 5 năm đã giảm chi thường xuyên cho thực hiện các nhiệm vụ này của ngân sách nhà nước khoảng 27 đến 28 ngàn tỷ đồng. Trong thời gian tới, cần tiếp tục cơ cấu lại ngân sách nhà nước trên cơ sở đẩy mạnh thực chất hơn nữa nhiệm vụ sắp xếp tổ chức bộ máy. Tinh giản biên chế, cắt giảm các nhiệm vụ chi không cần thiết. Thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí và nâng cao hiệu quả sử dụng của ngân sách nhà nước”, người đứng đầu Bộ Tài chính cho biết.

Bội chi được kiểm soát, nợ công đến cuối năm 2020 ước tính khoảng 54,3% GDP

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cũng cho biết, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát cả số tuyệt đối và số tương đối, năm 2020 dự toán là 3,44% GDP. Như vậy, bình quân của cả giai đoạn 2016-2020 bội chi ngân sách nhà nước khoảng 3,6 đến 3,7% GDP, vượt mục tiêu đề ra của giai đoạn là 3,9% vào năm 2020 là dưới 3,5% GDP.

Nhờ kiểm soát tốt bội chi, các khoản vay bảo lãnh của Chính phủ nên tốc độ tăng nợ công đã giảm hơn một nửa và tăng thấp hơn tốc độ tăng GDP danh nghĩa.

Nếu như giai đoạn 2011-2015 tốc độ tăng nợ công là 18,1% một năm, trong khi GDP danh nghĩa là 14,5% một năm thì giai đoạn 2016-2018 tốc độ tăng nợ công là 8,2% một năm, trong khi GDP danh nghĩa tăng 9,7% một năm.

“Nhờ vậy, tỷ lệ nợ công đến cuối năm 2020 chúng tôi đang ước tính khoảng 54,3% GDP, trong khi năm 2016 năm đầu của thời kỳ là 63,7% GDP”, Bộ trưởng Dũng cho hay.

Kỳ hạn phát hành trái phiếu chính phủ bình quân tăng từ mức 3,95 của năm 2011 lên mức 13,5 trong 9 tháng đầu năm 2019.

Đóng góp thu từ dầu thô và hoạt động xuất, nhập khẩu giảm rất nhanh

Cho biết, thu năm 2019-2020 chưa đạt mục tiêu là 21% GDP, mặc dù bình quân cả giai đoạn cơ bản đạt mục tiêu là 21% GDP. Nguyên nhân chủ yếu là do đóng góp thu từ dầu thô và hoạt động xuất, nhập khẩu thời gian qua giảm rất nhanh.

Bình quân của giai đoạn 2006-2010 hai khoản thu này đóng góp là 10,5% GDP, giai đoạn 2011-2015 còn 7,3% GDP, giai đoạn 2016-2020 giảm còn 4,5% GDP, dự kiến năm 2019 là 4,2%, năm 2020 còn 3,6% GDP của 2 khoản thu.

Trong khi triển khai các giải pháp điều chỉnh chính sách thu theo kế hoạch 5 năm gặp nhiều khó khăn. Trong kế hoạch 5 năm 2016-2020 đặt ra yêu cầu điều chỉnh chính sách thu để thu tăng thêm khoảng 300.000 tỷ đồng nhằm bù đắp giảm thu từ xuất nhập khẩu và dầu thô.

Bên cạnh đó, năng lực sản xuất của một số ngành, lĩnh vực đã đi vào ổn định, khó đạt mức tăng trưởng cao như dự toán năm 2020 từ than của Quảng Ninh thì tăng 8,2%, thu từ nhà máy lọc dầu Dung Quất giảm 19%.

Cùng với đó, thu nội địa của một số địa phương trọng điểm có điều tiết về ngân sách trung ương, tổng số thu là chiếm 2/3 tổng thu nội địa của cả nước tăng rất là chậm. Như Hà Nội thu nội địa của năm 2017 tăng đến 17,6% nhưng đến năm 2020 chỉ tăng khoảng 6,5%. Thành phố Hồ Chí Minh năm 2017 thu nội địa tăng 15,7% nhưng đến năm 2020 chỉ còn 12,3%.

Tương tự như vậy, Bình Dương năm 2017 là 17,3%, năm 2020 còn tăng 9,9%. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến cân đối thu của ngân sách trung ương gặp khó khăn. 5 năm 2016-2020 ước đạt khoảng 55%-56% tổng thu ngân sách nhà nước, thấp hơn mục tiêu đề ra.

“Để cải thiện vấn đề này, trong thời gian qua chúng tôi đã và đang nghiên cứu để tiếp tục kiến nghị điều chỉnh chính sách thu vừa đảm bảo tính cạnh tranh của môi trường đầu tư, đồng thời huy động hợp lý cho ngân sách nhà nước, phù hợp với thông lệ quốc tế”, Bộ trưởng nêu giải pháp.

Thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn là khoản thu quan trọng và cốt lõi,

“Đúng là thu ngân sách nhà nước 4 năm qua luôn vượt dự toán và thu của 3 khu vực kinh tế không đạt dự toán. Ở đây có nguyên nhân chủ quan của việc giao dự toán”, Bộ trưởng Dũng thừa nhận.

Cụ thể, mấy năm qua do thu từ dầu thô và xuất nhập khẩu giảm nhanh, dự toán năm 2020 thu dầu thô chiếm 2,3% tổng thu ngân sách nhà nước. Thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu chiếm 13,8%. Thu tiền sử dụng đất 6% nên dự toán thu hàng năm tập trung vào 3 khu vực kinh tế, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu ngân sách nhà nước. Dự toán năm 2020, 3 khu vực kinh tế chiếm 45% và cũng tập trung vào các địa phương trọng điểm về kinh tế.

Chính vì vậy, Bộ trưởng cho biết, năm 2018 đã báo cáo với Quốc hội và đã được từng bước điều chỉnh sát với thực tiễn, thể hiện số địa phương không đạt dự toán thu nội địa không kể tiền đất và xổ số kiến thiết đã giảm trong những năm gần đây.

Cụ thể, nếu như năm 2017 là 34 địa phương thì đến năm 2018 còn 22 địa phương, dự kiến năm nay 2019 còn 15 địa phương. Tuy nhiên, việc dự báo nguồn thu ở địa phương cũng có nhiều khó khăn.

“Ví dụ, khi xây dựng dự toán, đánh giá trong năm tới năng lực sản xuất của địa phương tăng lên do 1 hoặc 2, 3 dự án mới đi vào hoạt động nhưng thực tế chậm tiến độ dẫn đến giảm thu trong năm. Một số địa phương có thủy điện vừa và nhỏ phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết và kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”, Bộ trưởng dẫn lý do.

Tuy nhiên, Bộ trưởng Dũng khẳng định, thu ngân sách nhà nước đang ngày càng bền vững hơn. Thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn là khoản thu quan trọng và cốt lõi, dự toán thu nội địa năm 2020 ở mức 83,6% tổng thu ngân sách nhà nước. Trong đó, riêng thu từ 3 khu vực kinh tế đạt gần 45% tổng thu ngân sách nhà nước và năm 2017 mới đạt 39%, tỷ lệ này đang tăng lên rất là nhanh. Thu tiền sử dụng đất năm 2020 chỉ chiếm 6% và thu quyền khai thác khoáng sản chiếm 0,3% tổng thu ngân sách nhà nước.

Báo cáo với Quốc hội, Bộ trưởng cũng cho biết, trong 10 tháng đầu năm 2019, toàn ngành tài chính đã thực hiện trên 73,9 nghìn cuộc thanh tra và kiểm tra. Qua đó, đã kiến nghị xử lý về tài chính trên 48,3 nghìn tỷ đồng, trong đó thu nộp vào ngân sách nhà nước 14,8 nghìn tỷ đồng, kiến nghị tài chính khác là 33.000 tỷ đồng, riêng số giảm lỗ là 29,9 nghìn tỷ đồng. Số tiền đã thực nộp vào ngân sách nhà nước là 10,3 nghìn tỷ đồng.

Đồng thời, Bộ Tài chính đã và đang tích cực đẩy mạnh việc cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa công tác quản lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp và người dân.

Về công tác thu hồi nợ đọng thuế, trong tổng số tiền nợ thuế do ngành thuế quản lý tính đến hết tháng 10/2019 thì nợ có khả năng thu chiếm 52,2% giảm 12,3% so với cùng kỳ năm 2018.

“Nợ không có khả năng thu hồi chiếm 47,8% và tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ nợ đọng có khả năng thu trên tổng thu nội địa đã giảm, nếu năm 2015 là 7,7% thì đến cuối tháng 10/2019 còn 3,65%”, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng giải trình thêm với Quốc hội./.

Tại phiên thảo luận, đại biểu Bùi Thanh Tùng - Phó đoàn chuyên trách TP Hải Phòng lo lắng khi cơ cấu thu ngân sách chưa bền vững.

"Thu ngân sách từ nguồn thực lực nền kinh tế, cụ thể là khối sản xuất ở khu vực doanh nghiệp nhà nước, đầu tư nước ngoài còn thấp, không đạt kế hoạch", ông nhận xét và đề nghị Chính phủ cần phân tích, làm rõ thêm tác động từ đóng góp của nguồn lực này.

Cụ thể, tăng thu nội địa vượt dự toán 1,9%, còn các khoản thu không có tính bền vững như thu tiền sử dụng đất, xổ số kiến thiết tăng mạnh. Trong khi đó, thu từ ba khối doanh nghiệp đều không đạt kế hoạch"...