Dự báo thị trường dược phẩm Việt Nam tiếp tục tăng trưởng với tốc độ 10%-15%/năm

Trên toàn cầu, quy mô thị trường hóa chất dược phẩm đạt 108 tỷ USD vào năm 2022 và được dự đoán sẽ đạt 205,6 tỷ USD vào cuối năm 2032, đạt CAGR là 6,7% trong giai đoạn dự báo từ năm 2023 đến năm 2032. Nhu cầu về thuốc tiên tiến và dược chất ngày càng tăng là động lực tăng trưởng chính của thị trường hóa chất dược phẩm. Dược chất sản xuất bằng phương pháp tổng hợp hóa học hiện chiếm phần lớn thị phần API toàn cầu (gần 72%).

Công nghiệp hóa dược phát triển mạnh ở các nước Bắc Mỹ, đặc biệt là ở Mỹ nhờ cơ chế chính sách thuận lợi của chính phủ đối với các hoạt động nghiên cứu, phát triển và sản xuất hóa chất dược phẩm. Châu Á - Thái Bình Dương dự kiến cũng sẽ có tốc độ tăng trưởng nhanh nhờ sản lượng API ngày càng tăng và các công ty dược phẩm lớn trong khu vực đầu tư ngày càng nhiều vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển API.

Tại Việt Nam, trong những năm qua, ngành công nghiệp dược phẩm nói chung và hóa dược nước ta đã có những bước tăng trưởng nhanh chóng.

Cả nước mới chỉ có 6 doanh nghiệp đăng ký sản xuất hóa dược
Nhiều doanh nghiệp dược ở trong nước đã đạt tiêu chuẩn WHO-GMP, trong đó một số đạt tiêu chuẩn EU-GMP hoặc Japan-GMP

Theo báo cáo của Cục Hóa chất (Bộ Công Thương), thị trường dược phẩm Việt Nam đạt khoảng 7 tỷ USD vào năm 2020 và dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng với tốc độ 10%-15% mỗi năm trong những năm tới. Sự phát triển này phản ánh nhu cầu ngày càng cao về chăm sóc sức khỏe của người dân, cũng như sự quan tâm của Chính phủ trong việc nâng cao sức khỏe cộng đồng.

Nhiều doanh nghiệp dược ở trong nước đã đạt tiêu chuẩn WHO-GMP, trong đó một số đạt tiêu chuẩn EU-GMP hoặc Japan-GMP.

Việt Nam chỉ có 3 doanh nghiệp hóa dược đạt tiêu chuẩn WHO-GMP

Tuy nhiên, nhìn chung ngành công nghiệp hóa dược Việt Nam nhìn chung chưa phát triển. Hầu hết các doanh nghiệp dược trong nước đều sản xuất các loại thuốc thông thường, phổ biến trên thị trường, như: một số loại kháng sinh, giảm đau, hạ sốt, thực phẩm bảo vệ sức khỏe..., trong khi các loại thuốc chuyên khoa, đặc trị có yêu cầu kỹ thuật bào chế hiện đại chưa sản xuất được…

Trong cả nước hiện nay chỉ có 6 doanh nghiệp đăng ký sản xuất hóa dược, trong đó có 3 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn WHO-GMP. Sản phẩm của các doanh nghiệp này tương đối đơn giản bao gồm: terpin hydrat, hydroxit magie, cacbonat canxi, phosphate canxi, gelatin...

Các doanh nghiệp hóa dược trong nước có quy mô nhỏ, sử dụng công nghệ và thiết bị khá lạc hậu, nên giá thành sản phẩm cao, khả năng cạnh tranh thấp. Các sản phẩm chiết xuất từ cây dược liệu, như: tinh dầu, cao dược liệu chất lượng chưa cao và chủ yếu được sử dụng trong nước để sản xuất thực phẩm chức năng, mỹ phẩm hoặc xuất khẩu.

Theo phân loại của UNIDO, công nghiệp dược của Việt Nam được xếp loại ở mức 3/5, nghĩa là “công nghiệp dược nội địa sản xuất đa số thành phẩm từ nguyên liệu nhập”. Theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), thì công nghiệp dược Việt Nam mới ở gần cấp độ 3 (bao gồm 4 mức) “có công nghiệp dược nội địa; có sản xuất thuốc generic; xuất khẩu được một số dược phẩm”.

Hiện nay, hoạt động bào chế thuốc mới đáp ứng được khoảng 70% nhu cầu thuốc tính theo số lượng và 50% tính theo giá trị, song sử dụng nguyên liệu nhập khẩu là chủ yếu, nguồn nguyên liệu trong nước chỉ mới đáp ứng được một phần nhỏ cho nhu cầu sản xuất thuốc (khoảng 5,2% cho thuốc tân dược và khoảng 20% cho thuốc đông dược).

Do công nghiệp hóa dược chưa phát triển và sản phẩm của ngành chưa cạnh tranh được với sản phẩm của các nước trong khu vực, như: Trung Quốc, Ấn Độ, nên phần lớn nguyên liệu sử dụng để bào chế thuốc và sản xuất các sản phẩm bảo vệ sức khỏe khác đều phải nhập khẩu.

Sự phát triển hạn chế của ngành công nghiệp hóa dược do nhiều nguyên nhân, trong đó có tác động của một số yếu tố, như: hiệu quả khai thác và sử dụng nguồn nguyên liệu thô còn thấp; chưa tận dụng được các điểm mạnh về kinh tế - xã hội của đất nước; cơ chế, chính sách hiện hành còn một số bất cập, nên chưa thu hút được các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư; mặt trái của các hiệp định thương mại tự do…

Thực hiện các giải pháp đồng bộ, khả thi để phát triển công nghiệp dược

Để phát triển bền vững ngành công nghiệp dược phẩm, theo Cục Hóa chất, Chính phủ, bộ, ngành cần xây dựng Chương trình nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống các cơ chế, chính sách đồng bộ (về khuyến khích, hỗ trợ đầu tư, nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ, cải cách thủ tục hành chính…).

Đồng thời, đề xuất các chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp đối với ngành công nghiệp hóa dược. Trong đó, áp dụng cơ chế ưu đãi, hỗ trợ ở mức cao đối với một số hoạt động như: nghiên cứu phát triển, chuyển giao công nghệ, đặc biệt là công nghệ mới, công nghệ cốt lõi, công nghệ sản xuất các sản phẩm hóa dược có giá trị cao và một số hoạt động khác có tính chất đột phá nhằm phát triển ngành công nghiệp hóa dược.

Ngoài ra, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, nhất là của các nước có nền công nghiệp hóa dược phát triển. Cần xây dựng Chương trình thúc đẩy hoạt động nghiên cứu phát triển, chuyển giao công nghệ cho lĩnh vực hóa dược. Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác trong nước và quốc tế trong nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực ngành công nghiệp hóa dược. Chú trọng xây dựng, đào tạo, thu hút nhân lực chất lượng cao, tạo điều kiện cho các nhà khoa học, trong đó có Việt kiều, người nước ngoài về làm việc tại Việt Nam.

Đặc biệt, cần thu hút nguồn lực đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước cho nghiên cứu phát triển sản phẩm hóa dược. Chú trọng thu hút đầu tư từ các tập đoàn, doanh nghiệp lớn đa quốc gia. Chính phủ, bộ, ngành xem xét, bố trí nguồn vốn đầu tư từ ngân sách đối với một số dự án, chương trình cụ thể về hóa dược.

Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế là một giải pháp quan trọng nhằm tiếp cận, tiếp thu kinh nghiệm của các nước phát triển, đồng thời, tham gia có hiệu quả vào lĩnh vực hóa dược trên phạm vi toàn cầu, cụ thể là: Tích cực tham gia các diễn đàn, tổ chức quốc tế về hóa dược. Thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, hội thảo, trao đổi kết quả nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ với các nước có ngành công nghiệp hóa dược phát triển. Tăng cường hợp tác với các tập đoàn dược phẩm lớn đa quốc gia.

Tận dụng lợi thế các hiệp định thương mại tự do, mà Việt Nam đã tham gia nhằm tăng hiệu quả thu hút đầu tư phát triển sản xuất sản phẩm hóa dược, hỗ trợ bảo vệ sản xuất hóa dược trong nước. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng hợp tác, liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài để mở rộng thị trường, quảng bá sản phẩm và thương hiệu hàng Việt Nam.

Có biện pháp cụ thể nhằm xúc tiến, quảng bá xây dựng hình ảnh, thương hiệu quốc gia, chất lượng sản phẩm hóa dược có giá trị kinh tế cao. Nghiên cứu thúc đẩy việc xây dựng một số sản phẩm hóa dược trở thành sản phẩm quốc gia. Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về sử dụng sản phẩm hóa dược trong nước.

Ngoài ra, cần chú trọng đầu tư cho R&D, đào tạo nguồn nhân lực, cải thiện quản lý chất lượng./.