Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Keyword: chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi thuế, kinh tế tư nhân
Summary
In Vietnam, the private economic sector, with its core being small-scale enterprises, mainly small and micro enterprises, accounts for the majority of the total number of operating enterprises and holds a particularly significant position in economic development and social stability. Policies on finance, legal corridors... supporting the private economy are necessary and urgent, and tax policies play a crucial role in promoting private economic development. The article studies the current situation of corporate income tax policies for the private economic sector in Vietnam and evaluates the application of corporate income tax policies in private economic development in Vietnam. On that basis, the authors propose several solutions to reform corporate income tax policies and corporate income tax management for the private economic sector in Vietnam in the coming time.
Keyword: corporate income tax policy, tax incentives, private economy
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khu vực DN tư nhân đang khẳng định vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2019, Việt Nam có 668,5 ngàn doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp tư nhân trong nước là 647,632 ngàn doanh nghiệp, chiếm 96,88% tổng số, đóng góp 15,12 triệu tỷ đồng (57%) tổng doanh thu thuần, thu hút 9.075 ngàn lao động, chiếm 59,9% tổng lao động trong khu vực doanh nghiệp ở Việt Nam; thì đến năm 2023, số doanh nghiệp tư nhân đã tăng lên 809,968 ngàn doanh nghiệp. Tại Hội nghị của Thường trực Chính phủ làm việc với các doanh nghiệp về giải pháp góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước tổ chức ngày 21/9/2024, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Trung ương 10 khóa XII và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đều nhấn mạnh kinh tế tư nhân là "một động lực quan trọng của nền kinh tế". Đến nay, kinh tế tư nhân đóng góp 45% GDP, 40% vốn đầu tư toàn xã hội, tạo ra 85% việc làm cho tổng số lao động, chiếm 35% kim ngạch nhập khẩu và 25% kim ngạch xuất khẩu. Việt Nam đã có những tập đoàn tư nhân vươn ra khu vực và thế giới (Mạnh Hùng, 2024).
Tuy đạt nhiều thành tựu nhưng cơ chế, chính sách khuyến khích KTTN phát triển còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ. KTTN chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế. KTTN ở Việt Nam có quy mô nhỏ, chủ yếu vẫn là kinh tế hộ, năng suất lao động còn thấp, năng lực cạnh tranh còn hạn chế, cơ cấu sản phẩm, ngành nghề chưa đa dạng, chưa nhạy bén với thị trường. Một trong những nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trên là cơ chế chính sách cho khu vực KTTN chưa được hoàn thiện, chưa tạo điều kiện thuận lợi nhất để phát triển; trong đó, chính sách thuế dù đã có nhiều hỗ trợ KTTN phát triển, nhưng trước yêu cầu mới, cần tiếp tục có sự đổi mới.
CHÍNH SÁCH THUẾ THU NHẬP DN TRONG PHÁT TRIỂN KTTN Ở VIỆT NAM
Qua các giai đoạn cải cách thuế, chính sách thuế đã hỗ trợ phát triển KTTN ở Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã có hệ thống thuế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó khu vực KTTN được đối xử bình đẳng với các khu vực kinh tế khác. Tuy nhiên, hiện nay, chưa có quy định khác biệt rõ nét về chính sách thuế đối với khu vực tư nhân nói chung mà chủ yếu tập trung hướng đến hai đối tượng trong khu vực KTTN là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) và doanh nghiệp khởi nghiệp.
Để hỗ trợ được nhiều hơn cho khu vực KTTN, Chính phủ đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế, theo đó, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành các chính sách, như: Luật Thuế Bảo vệ môi trường (năm 2010), Luật Thuế Sử dụng đất phi nông nghiệp (năm 2011) thay thế cho thuế nhà, đất; ban hành Nghị quyết về Biểu khung thuế suất thuế tài nguyên (các năm 2013, 2015), Luật Phí và lệ phí (năm 2015).
Chính phủ đã nhiều lần trình Quốc hội cho sửa đổi, bổ sung các luật thuế trụ cột của hệ thống nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trong giai đoạn tái cơ cấu nền kinh tế. Nhờ đó, số thu thuế đã tăng lên qua các năm và có đóng góp tỷ trọng lớn vào nền kinh tế (Bảng 1).
Bảng 1: Số thu thuế qua các năm 2018-2023
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu | 2018 | 2019 | 2020 | 2021 | 2022 | 2023 |
Tổng thu thuế (tỷ đồng) | 1.100.498 | 1.082.213 | 1.020.728 | 1.215.432 | 1.326.619 | 1.390.000 |
Tổng thu NSNN (tỷ đồng) | 1.431.662 | 1.553.611 | 1.510.579 | 1.591.411 | 1.820.310 | 1.752.500 |
GDP (tỷ đồng) | 7.009.042 | 7.707.200 | 8.044.386 | 8.487.476 | 9.548.738 | 10.221.815 |
Tỷ trọng tổng thu thuế trong GDP (%) | 15,70 | 14,04 | 12,69 | 14,32 | 13,89 | 13,60 |
Nguồn: Dữ liệu từ Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Thuế TNDN đóng vai trò cốt lõi trong việc bổ sung nguồn lực cho ngân sách nhà nước. Theo số liệu thống kê, thuế TNDN ghi nhận mức tăng trưởng liên tục trong giai đoạn 2018-2023. Hiện nay, thuế TNDN vẫn giữ vai trò là nguồn thu chủ lực, chiếm khoảng 23%-26% tổng thu thuế của Việt Nam (Bảng 2).
Bảng 2: Tỷ trọng thu thuế TNDN so với thu NSNN và GDP các năm
Chỉ tiêu | 2018 | 2019 | 2020 | 2021 | 2022 | 2023 |
Thuế TNDN (tỷ đồng) | 257.141 | 280.425 | 270.996 | 318.745 | 338.345 | 310.482 |
Tổng thu thuế (tỷ đồng) | 1.100.498 | 1.082.213 | 1.020.728 | 1.215.432 | 1.326.619 | 1.390.000 |
Tổng thu NSNN (tỷ đồng) | 1.431.662 | 1.553.611 | 1.510.579 | 1.591.411 | 1.820.310 | 1.752.500 |
GDP (theo giá hiện hành) | 7.009.042 | 7.707.200 | 8.044.386 | 8.487.476 | 9.548.738 | 10.221.815 |
Tỷ trọng thuế TNDN trong tổng thu thuế (%) | 23,37 | 25,91 | 26,55 | 26,22 | 25,50 | 22,34 |
Tỷ trọng thuế TNDN trong tổng thu NSNN (%) | 17,96 | 18,05 | 17,94 | 20,03 | 18,59 | 17,72 |
Tỷ trọng thuế TNDN trong GDP (%) | 3,67 | 3,64 | 3,37 | 3,76 | 3,54 | 3,04 |
Nguồn: Tính toán từ số liệu Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Giai đoạn 2018-2023, nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế thu nhập DN đã tăng đáng kể, giúp giải quyết tốt hơn các yêu cầu chi tiêu ngân sách nhà nước, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đảm bảo phúc lợi xã hội và tạo việc làm. Tỷ trọng thu ngân sách nhà nước từ thuế TNDN trong tổng thu ngân sách nhà nước và GDP cơ bản không có sự thay đổi đáng kể trong suốt giai đoạn 2018-2023 (Hình 1).
Hình 1: Tỷ trọng thuế TNDN trong tổng thu NSNN và GDP
Đơn vị: Tỷ đồng
![]() |
Nguồn: Tính toán từ số liệu Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê |
Chính sách thuế TNDN chủ yếu tác động đến mục tiêu phát triển KTTN thông qua các ưu đãi thuế. Luật Thuế TNDN năm 2003 và Luật Đầu tư năm 2005, các quy định về thuế và ưu đãi thuế được áp dụng thống nhất giữa khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và khu vực có vốn đầu tư trong nước, khu vực KTTN được tiếp tục áp dụng các ưu đãi thuế rất cao.
Đối với các DNNVV
Theo Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP, ngày 11/12/2008 của Chính phủ về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, thuế TNDN được giảm 30% phải nộp trong quý IV/2008 và cho năm 2009. Việc triển khai nhanh chóng các ưu đãi thuế là yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo ra những chuyển biến tích cực cho nền kinh tế. Hầu như tất cả các DN gặp khó khăn đã quay trở lại hoạt động sản xuất và người lao động cũng đã trở lại với công việc của mình.
Đến năm 2011, để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn và thúc đẩy sự phát triển kinh tế, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 21/2011/QĐ-TTg, ngày 06/4/2011 về việc gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp của doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm tháo gỡ khó khăn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế năm 2011, cho phép giãn thời gian nộp thuế TNDN trong một năm cho các DN nhỏ và vừa, thay vì chỉ 3 tháng như vào năm 2010. Sau đó, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 8/2011/QH13, ngày 06/8/2011 về ban hành bổ sung một số giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cá nhân. Nghị quyết số 8/2011/QH13 đã bổ sung thêm một số biện pháp thuế nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, trong đó chính sách ưu đãi thuế được áp dụng mạnh mẽ. Cụ thể, năm 2011, giảm 30% thuế TNDN cho các DNNVV đã được gia hạn thuế, cũng như các DN sử dụng nhiều lao động trong các lĩnh vực sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử, và xây dựng hạ tầng kinh tế xã hội.
Theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNDN (năm 2013), trước ngày 01/01/2014, mức thuế suất chung là 25%. Tuy nhiên, để hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn, Bộ Tài chính đã đưa ra quy định mới, áp dụng mức thuế suất 20% từ ngày 01/7/2013, sớm hơn so với kế hoạch 6 tháng.
Vào năm 2017, Quốc hội đã thông qua Luật Hỗ trợ DNNVV, theo đó các DN này sẽ được áp dụng mức thuế suất TNDN thấp hơn mức thông thường trong một khoảng thời gian nhất định. Các ngành nghề và lĩnh vực được hưởng ưu đãi, cũng như địa bàn áp dụng, đã được quy định cụ thể trong Luật Thuế TNDN. Luật này còn xác định các khoản thu nhập miễn thuế, cùng với các quy định về thời gian miễn, giảm thuế và ưu đãi về thuế suất. Các DNNVV nếu có thu nhập đáp ứng điều kiện sẽ được miễn hoặc nhận ưu đãi về thuế. Những dự án đầu tư mới hoặc mở rộng nếu thỏa mãn các tiêu chí về lĩnh vực hoặc địa bàn sẽ được áp dụng mức thuế suất ưu đãi trong một khoảng thời gian nhất định, bên cạnh việc miễn hoặc giảm thuế trong vài năm.
Ngoài ra, do tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, một số doanh nghiệp đã được gia hạn thời gian nộp thuế TNDN theo Nghị định số 41/2020/NĐ-CP, ngày 08/4/2020 của Chính phủ gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất. Qua đó, có thể thấy, các quy định về khuyến khích và ưu đãi cho khu vực KTTN đã chứng tỏ vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển.
Đối với doanh nghiệp khởi nghiệp
Kể từ ngày 01/01/2014, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp đã bổ sung thêm nhiều khoản thu nhập được miễn thuế, trong đó có thu nhập từ chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên cho tổ chức, cá nhân ở khu vực có điều kiện đặc biệt khó khăn. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp đã bổ sung quy định rằng, các doanh nghiệp hoạt động có dự án đầu tư mở rộng vào lĩnh vực và địa bàn được ưu đãi thuế, nếu đáp ứng các tiêu chí theo Luật, thì có thể chọn nhận ưu đãi thuế cho dự án hiện tại trong thời gian còn lại hoặc được miễn giảm thuế đối với phần thu nhập tăng thêm từ việc đầu tư mở rộng.
Thời gian được miễn giảm thuế cho phần thu nhập tăng thêm từ đầu tư mở rộng sẽ tương đương với khoảng thời gian miễn giảm thuế dành cho các dự án đầu tư mới trong cùng khu vực và lĩnh vực được ưu đãi thuế TNDN.
Hình 2: Tỷ trọng đóng góp thuế TNDN vào ngân sách nhà nước của các loại hình doanh nghiệp
Đơn vị: %
![]() |
Nguồn: Tính toán từ số liệu Bộ Tài chính |
Hình 2 cho thấy, trong giai đoạn 2018-2023, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp trung bình 6%-7% tổng thu NSNN từ TNDN. Trong khi đó, tỷ trọng đóng góp của doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt từ 4%-7% và doanh doanh nghiệp nhà nước chỉ đạt trung bình 3%. Điều này cho thấy, tổng thu NSNN được đóng góp phần lớn từ khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh và DN có vốn đầu tư nước ngoài.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Chính sách thuế TNDN đã được cải tiến dần nhằm hướng tới sự phát triển của KTTN. Tuy nhiên, chính sách thuế TNDN tại Việt Nam vẫn còn một số vấn đề cần phải khắc phục, chẳng hạn như:
- Có sự phức tạp và thiếu rõ ràng: Một số quy định trong chính sách này có thể rất khó hiểu và phức tạp đối với các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các DNNVV. Điều này có thể dẫn đến sự bất ổn và không chắc chắn trong việc tuân thủ cũng như thực thi chính sách thuế.
- Chi phí hoạt động tăng lên: Một số biện pháp thuế, chẳng hạn như việc giám sát chi phí của doanh nghiệp, có thể dẫn đến việc gia tăng chi phí hoạt động cho các doanh nghiệp tư nhân. Điều này có thể ảnh hưởng xấu đến lợi nhuận và khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường.
- Hiệu quả thu thuế chưa cao: Nhiều vấn đề liên quan đến việc quản lý và thi hành luật thuế có thể làm giảm hiệu lực của chính sách thuế. Sự kém hiệu quả này có thể gây thất thu thuế và tạo sự bất bình đẳng trong việc phân chia gánh nặng thuế giữa các doanh nghiệp. Việc giãn, giảm thuế cho doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu NSNN, chủ yếu tác động vào thu ngân sách.
- Hiện tại vẫn chưa có chính sách và quy định pháp lý nào về thuế suất ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho các DNNVV. Kể từ khi Luật Hỗ trợ DNNVV (năm 2017) chính thức có hiệu lực vào ngày 01/01/2018, vẫn chưa có những ưu đãi đặc biệt nào về mức thuế suất thuế TNDN dành riêng cho DNNVV với mục tiêu khuyến khích phát triển. Luật này quy định rằng DNNVV có thể áp dụng mức thuế suất thấp hơn so với mức bình thường trong một khoảng thời gian nhất định. Bên cạnh đó, cũng chưa có những quy định hay hướng dẫn cụ thể cho việc miễn hoặc giảm thuế TNDN cho các hộ kinh doanh khi chuyển đổi thành DNNVV. Việc xây dựng ngay một chính sách ưu đãi thuế cho những doanh nghiệp mới chuyển đổi từ hộ kinh doanh là rất cần thiết, không chỉ để bảo đảm sự đồng bộ của văn bản luật, mà còn giúp DNNVV nâng cao khả năng cạnh tranh và tạo thêm việc làm cho người lao động.
- Chưa có phương pháp tính thuế đơn giản hóa dành cho các doanh nghiệp siêu nhỏ. Để giảm thiểu chi phí liên quan đến thu thuế và đơn giản hóa thủ tục hành chính, việc điều chỉnh một số quy định là cần thiết, trong đó có khả năng cho phép các doanh nghiệp siêu nhỏ tính thuế thu nhập doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ phần trăm trên doanh thu bán hàng. Vì thế, cần sớm khắc phục những hạn chế trong chính sách thuế để phù hợp với thực tiễn hiện tại.
- Các ưu đãi thuế hiện có tại Việt Nam khá đa dạng nhằm kích thích đầu tư và phát triển kinh tế, nhưng tiêu chí để đủ điều kiện nhận ưu đãi cùng với quy trình đăng ký vẫn còn khá phức tạp. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể không tận dụng được những lợi ích này vì thiếu thông tin hoặc không đáp ứng được các yêu cầu đặt ra.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Mặc dù có một số chính sách thuế TNDN tại Việt Nam đã được triển khai và điều chỉnh theo thời gian, nhưng vẫn còn một số vấn đề tồn tại cần được khắc phục. Để giải quyết những vấn đề tồn tại này, theo nhóm tác giả, có thể xem xét các giải pháp sau:
Một là, tối ưu hóa hệ thống thuế: Kiểm tra và đánh giá lại cấu trúc thuế hiện tại để đảm bảo tính công bằng, hiệu quả và minh bạch. Cần xem xét việc giảm bớt số lượng các loại thuế và tinh giản quy trình thuế để giảm bớt gánh nặng hành chính cho doanh nghiệp.
Hai là, tăng cường minh bạch: Cải thiện tính minh bạch của quy trình thuế và công khai thông tin về các biện pháp và quy định thuế. Điều này giúp tạo ra sự tin cậy và sự khích lệ cho các DN.
Ba là, đẩy mạnh tự động hóa và tăng cường quản lý và thi hành: Đầu tư vào công nghệ thông tin để tối ưu hóa việc thu thuế và giảm thiểu sự phức tạp trong quy trình đăng ký và nộp thuế, đơn giản hóa thủ tục thuế. Cải thiện hiệu quả của cơ quan thuế trong việc quản lý và thi hành thuế, đảm bảo tuân thủ chặt chẽ các quy định về thuế TNDN và tránh sự thiếu công bằng trong việc thu thuế, tăng cường năng lực quản lý thuế và thúc đẩy sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa Chính phủ và các bên liên quan trong khu vực tư nhân trong việc xây dựng và thực thi chính sách.
Bốn là, tăng cường hỗ trợ cho doanh nghiệp: Tạo ra các chương trình hỗ trợ và đào tạo để nâng cao nhận thức và hiểu biết về các quy định thuế TNDN trong cộng đồng doanh nghiệp, mở rộng khả năng tiếp cận các ưu đãi thuế, đặc biệt là cho các DNNVV./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính (2018-2023), Số liệu về nguồn thu NSNN các năm, từ năm 2018 đến năm 2023.
2. Hà Mai Ngọc (2021), Chính sách thuế đối với phát triển KTTN ở Việt Nam, Tạp chí Tài chính, kỳ 2, tháng 5/2021.
3. Mạnh Hùng (2024), Kinh tế tư nhân là "một động lực quan trọng của nền kinh tế", truy cập từ https://dangcongsan.vn/thoi-su/kinh-te-tu-nhan-la-mot-dong-luc-quan-trong-cua-nen-kinh-te-678530.html.
4. Quốc hội (2008), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, số 14/2008/QH12, ngày 03/6/2008.
5. Quốc hội (2011), Nghị quyết số 8/2011/QH13, ngày 06/8/2011 về ban hành bổ sung một số giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cá nhân.
6. Quốc hội (2013), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, số 32/2013/QH13, ngày 19/6/2013.
7. Quốc hội (2017), Luật Hỗ trợ DNNVV, số 04/2017/QH14, ngày 12/6/2017.
8. Quốc hội (2023), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, số 32/2013/QH13, ngày 19/6/2023.
9. Tổng cục Thống kê (2019-2024), Niên giám Thống kê các năm, từ năm 2018 đến năm 2023.
ThS. Trần Thị Mơ
Trường Đại học Tài chính – Marketing
ThS. Vũ Thị Kim Oanh
Trường Chính trị Châu Văn Đặng
(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 01, tháng 01/2025)
Bình luận