Đề xuất 7 giải pháp phát triển, lành mạnh hóa thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) là kênh huy động vốn trung, dài hạn cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tại Việt Nam, phát triển thị trường TPDN còn có vai trò giúp phát triển lành mạnh, cân đối hệ thống tài chính, giảm bớt áp lực cho vay trung dài hạn đối với các tổ chức tín dụng (TCTD). Ước tính đến cuối năm 2021, quy mô tổng tài sản của hệ thống TCTD gấp 1,6 lần quy mô vốn hóa thị trường chứng khoán, chiếm hơn 62% tổng quy mô thị trường tài chính Việt Nam. Đồng thời, thị trường TPDN phát triển cũng giúp nền tảng nhà đầu tư, sản phẩm tài chính trong nước và nước ngoài đa dạng hơn, giúp phát triển lành mạnh hệ thống tài chính nói chung. Thị trường cũng là nơi huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư phục vụ sản xuất, kinh doanh, giúp giảm hiện tượng vàng hóa, đô la hóa trong nền kinh tế…
Đến cuối năm 2021, quy mô thị trường TPDN ước tính gần 1,5 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 17,5% GDP |
Những năm gần đây, với chủ trương của Chính phủ về phát triển thị trường vốn Việt Nam một cách đồng đều và bền vững hơn, thị trường TPDN có những bước tiến mạnh mẽ về quy mô, đa dạng hàng hóa, cơ cấu nhà phát hành, nhà đầu tư… Tuy nhiên, thị trường còn tiềm ẩn rủi ro về chất lượng trái phiếu, nền tảng nhà đầu tư, năng lực và uy tín của chủ thể phát hành, chưa có tổ chức định hạng tín nhiệm... Điều này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển chung của thị trường tài chính. Để tránh xảy ra những tổn thất lớn trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục thực hiện các giải pháp phát triển, lành mạnh hóa thị trường một cách phù hợp. Bài viết tập trung vào nhìn lại sự phát triển thị trường TPDN 5 năm qua, đánh giá tiềm năng/cơ hội, rủi ro và hệ thống pháp lý để đưa ra những giải pháp phát triển, lành mạnh hóa thị trường.
Sự phát triển của thị trường TPDN Việt Nam
Trong 5 năm vừa qua, thị trường TPDN đã đạt được những kết quả đáng kể về tăng trưởng quy mô, sự đa dạng của cơ cấu chủ thể phát hành, nhà đầu tư, kỳ hạn, sản phẩm…
Thứ nhất, về quy mô, đến cuối năm 2021, quy mô thị trường TPDN ước tính gần 1,5 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 17,5% GDP. Quy mô thị trường gấp 5 lần so với năm 2017 và vượt mục tiêu 7% GDP đến năm 2020 tại Quyết định số 1191/QĐ-TTg ngày 14/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ. Với tốc độ phát triển nhanh nhất Đông Nam Á trong 15 năm trở lại đây, quy mô thị trường TPDN/GDP Việt Nam đã vượt Philippines (7,6%) và Indonesia (2,7%), nhưng thấp hơn so với Thái Lan (24,8%), Singapore (36,5%) hay Malaysia (56,8%)…
Theo số liệu từ hiệp hội Trái phiếu Việt Nam (VBMA), trong năm 2021, tổng quy mô phát hành TPDN ước đạt 637 nghìn tỷ đồng (trong đó, phát hành trong nước là 470 nghìn tỷ đồng). Khối lượng TPDN phát hành năm 2021 tăng 48% so với năm 2020, giảm so với tốc độ tăng 60%/năm trung bình giai đoạn 2018-2020. Song, trong tháng 1/2022, quy mô phát hành trên thị trường đã tăng tốt, với hơn 24.500 tỷ đồng, tăng 75% so với cùng kỳ 2021.
Thứ hai, TPDN phát hành riêng lẻ (không cần cơ quan nhà nước thẩm định, doanh nghiệp và nhà đầu tư tự thỏa thuận các điều kiện, điều khoản của trái phiếu trên cơ sở quy định của pháp luật) chiếm đa số. Trong giai đoạn 2017-2021, khối lượng phát hành riêng lẻ chiếm 94,5% (trong tháng 1/2021, tỷ lệ này giảm xuống khoảng 73%). Tỷ lệ TPDN không có tài sản bảo đảm hay đảm bảo bằng bất động sản (chủ yếu là dự án, tài sản hình thành trong tương lai), cổ phiếu (giá trị biến động) còn nhiều, ảnh hưởng tới sự an toàn của thị trường.
Cơ cấu TPDN theo tài sản đảm bảo (tháng 12/2021)
Thứ ba, cơ cấu nhà phát hành đa dạng hơn. Trước đây nhà phát hành trên thị trường chủ yếu là các định chế tài chính (chiếm 45% khối lượng phát hành năm 2019). Đến nay, doanh nghiệp thuộc nhiều ngành nghề, lĩnh vực tham gia phát hành, bao gồm hàng tiêu dùng, năng lượng… Riêng nhóm các doanh nghiệp bất động sản huy động nhiều với tỷ trọng dao động từ 38-41% trong giai đoạn 2019-2021, và lên tới 65% trong tháng 1/2022. Nguyên nhân là: (i) Các hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư trên đà “bình thường hóa”; (ii) Ngân hàng Nhà nước siết chặt hoạt động tín dụng vào các lĩnh vực rủi ro như bất động sản; (iii) Môi trường lãi suất tiết kiệm ở mức thấp, kích thích lực cầu đầu tư của các nhà đầu tư tìm kiếm kênh đầu tư thay thế có mức sinh lời tốt hơn. Tiếp theo là nhóm TCTD, phát hành khoảng 223 nghìn tỷ đồng (chiếm 36%) trong năm 2021, riêng tháng 12/2021 là 54 nghìn tỷ đồng do chủ động phát hành trước khi Thông tư 16/2021/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 15/1/2022 (Quy định mới được kỳ vọng sẽ siết chặt việc mua TPDN của các tổ chức tín dụng. Cụ thể, các ngân hàng thương mại không được bán và mua lại trái phiếu của doanh nghiệp chưa niêm yết trong 12 tháng, đồng thời chỉ được mua TPDN khi nợ xấu dưới 3%. Ngoài ra, không được mua TPDN để cơ cấu lại khoản nợ của chính doanh nghiệp phát hành, góp vốn mua cổ phần tại doanh nghiệp khác hay tăng quy mô vốn hoạt động).
Cơ cấu phát hành TPDN năm 2021
Thứ tư, kỳ hạn TPDN khá ngắn, hầu hết là từ 2-5 năm, ngoại trừ các TPDN của TCTD (khoảng 5-10 năm). Tính chung toàn thị trường, kỳ hạn phát hành bình quân là khoảng 4 năm (năm 2019 là 4,1 năm, năm 2020 là 4,27 năm, năm 2021 là 4,15 năm, tháng 1/2022 là 3 năm). Với sự phát triển bùng nổ của thị trường từ năm 2019, thì dự kiến khối lượng TPDN đáo hạn trong năm 2022-2024 ở mức khá cao (Fingroup công bố là khoảng 50% khối lượng trái phiếu, riêng trái phiếu bất động sản là 65%).
Thứ năm, cùng với sự đa dạng của các doanh nghiệp tham gia phát hành, thị trường cũng ghi nhận sự gia tăng đáng kể của nhiều nhóm nhà đầu tư. Trong đó, trên thị trường sơ cấp trong năm 2021 chủ yếu là các nhà đầu tư tổ chức, nhiều nhất là ngân hàng (khoảng 30%) và công ty chứng khoán (36%). Đặc biệt, từ năm 2018, sự tham gia của nhóm nhà đầu tư cá nhân tăng nhanh, chủ yếu do chênh lệch lãi suất giữa TPDN và tiền gửi tiết kiệm ngân hàng ở mức cao (khoảng 8-10%/năm). Năm 2019, khối lượng nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường sơ cấp đạt khoảng 10% toàn thị trường, nhưng tăng lên gần 13% trong năm 2020, sau đó giảm xuống 5% trong năm 2021 (nhưng theo Bộ Tài chính, tỷ lệ nhà đầu tư cá nhân trên thị trường thứ cấp tăng lên đến 30%).
Tỷ trọng nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp (tháng 12/2021)
Như vậy, thị trường TPDN dần trở thành một phần quan trọng của hệ thống tài chính Việt Nam. Thị trường đang trở thành kênh cung ứng vốn trung, dài hạn cho doanh nghiệp giúp duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh, giảm bớt áp lực cho vay của các TCTD. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của hệ thống TCTD đang giảm dần, ước tính đến cuối năm 2021 chỉ còn khoảng 25%, so với 30,3% vào cuối năm 2019. Việc này cũng đồng thời phần nào giúp hệ thống TCTD nói riêng, cũng như hệ thống tài chính nói chung trở nên bền vững hơn.
Tiềm năng, cơ hội và rủi ro của thị trường
Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán giai đoạn 2021-2030 xác định tiếp tục cơ cấu lại toàn diện, để thị trường chứng khoán trở thành kênh dẫn vốn trung dài hạn chủ yếu của nền kinh tế; xây dựng cơ cấu hợp lý giữa thị trường tiền tệ tín dụng và thị trường vốn, giữa thị trường cổ phiếu, trái phiếu và thị trường chứng khoán phái sinh, giữa trái phiếu chính phủ và TPDN; mở rộng cơ sở nhà đầu tư, tăng quy mô và chất lượng hoạt động, đa dạng hóa các sản phẩm, nghiệp vụ, thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Đối với thị trường TPDN, định hướng đặt ra là phát triển cả về quy mô và độ sâu; nâng cao thanh khoản, đa dạng hoá sản phẩm, phát triển các sản phẩm trái phiếu xanh; tăng tính minh bạch của thị trường TPDN riêng lẻ; thúc đẩy các doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động vốn. Với định hướng trên, mục tiêu phấn đấu đến năm 2025 và 2030, quy mô thị trường TPDN đạt lần lượt 20% và 25% GDP.
Tuy nhiên, thị trường còn tiềm ẩn một số rủi ro cần lường trước và sớm có phương án xử lý.
Một là, chất lượng TPDN còn tiềm ẩn rủi ro cho nhà đầu tư, như: tài sản bảo đảm có rủi ro mất giá trị cao (cổ phần/phần vốn góp của chính tổ chức phát hành, quyền tài sản phát sinh…), tài sản bảo đảm khó xác định giá trị bao gồm bất động sản hình thành trong tương lai, cổ phiếu chưa niêm yết/phần vốn góp… Theo số liệu từ Bộ Tài chính, thời gian qua, khối lượng trái phiếu không có tài sản bảo đảm chiếm 51% tổng khối lượng phát hành, trong đó, đến 90% trái phiếu không có tài sản bảo đảm là trái phiếu do TCTD và công ty chứng khoán phát hành.
Hai là, năng lực/uy tín của chủ thể phát hành trên thị trường chưa đảm bảo. Theo Bộ Tài chính, còn tồn tại hiện tượng doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn chủ sở hữu hạn chế nhưng liên tục phát hành nhiều đợt TPDN với khối lượng lớn, sử dụng vốn từ phát hành trái phiếu không đúng với mục đích ban đầu, lưu chuyển vốn lòng vòng giữa các tổ chức phát hành và các tổ chức thực chất sử dụng vốn…
Ba là, nền tảng nhà đầu tư còn yếu về mức độ am hiểu thị trường, kiến thức về việc phân tích trái phiếu, từ việc đọc các điều khoản, điều kiện phát hành trái phiếu, đến điều kiện xử lý, thay đổi tài sản bảo đảm, các điều khoản về sự kiện vi phạm… còn hạn chế, nhất là các nhà đầu tư cá nhân (tham gia tích cực vào thị trường thứ cấp trong năm 2021). Các nhà đầu tư ưa chuộng đầu tư sản phẩm này, vì lãi suất cao mà chưa hiểu hết rủi ro của TPDN.
Bốn là, thị trường thiếu vắng các tổ chức định hạng tín nhiệm uy tín. Hiện Việt Nam mới có 2 công ty được Bộ Tài chính cấp phép đủ điều kiện cung cấp dịch vụ xếp hạng tín nhiệm cho doanh nghiệp (Fiinrating và Sài Gòn Phát Thịnh Rating). Điều này là do hoạt động định hạng tín nhiệm chưa phải là bắt buộc đối với doanh nghiệp phát hành TPDN. Thậm chí, thị trường còn có loại trái phiếu “ba không” đó là: Doanh nghiệp phát hành trái phiếu không có xếp hạng tín nhiệm; không có tài sản bảo đảm; không có bảo lãnh thanh toán, nhưng chưa được đánh giá đúng mức độ rủi ro.
Hệ lụy của thị trường hiện nay có thể rất lớn khi có trường hợp xảy ra rủi ro của bất kỳ loại trái phiếu nào. Nền tảng nhà đầu tư kém hiểu biết hiện nay sẽ hành động theo tâm lý bầy đàn, gây sụp đổ thị trường và có thể mang đến hậu quả khó lường về cả kinh tế - xã hội (tương tự như trường hợp vỡ nợ TPDN của Trung Quốc). Nguyên nhân của những rủi ro trên một phần do những bất hợp lý trong quy định quản lý thị trường còn mang tính ngắn hạn - chữa cháy, chưa đúng và trúng.
Quản lý nhà nước với thị trường TPDN Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế
Trước năm 2020, hoạt động phát hành trên thị trường TPDN tuân thủ theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Chứng khoán 2006 và các văn bản liên quan như Nghị định số 163/2018/NĐ-CP ngày 04/12/2018… Nghị định số 163/2018/NĐ-CP quy định cụ thể, chi tiết và yêu cầu khá thấp đối với việc phát hành TPDN theo hình thức riêng lẻ. Nhờ đó, giúp thị trường tăng tốc tốt trong giai đoạn 2018-2019. Từ đầu năm 2021, Luật Chứng khoán 2019 có hiệu lực cùng với Luật Doanh nghiệp năm 2020 và các nghị định liên quan đã giúp hoàn thiện hơn khung pháp lý cho thị trường TPDN tiệm cận với các thông lệ quốc tế. Theo đó, Nghị định số 81/2020/NĐ-CP, ngày 09/7/2020 và Nghị định số 153/2020/NĐ-CP, ngày 31/12/2020 đã lần lượt ra đời để sửa đổi, thay thế N Nghị định số 163/2018/NĐ-CP. Một số nội dung mới tại các văn bản này là hạn chế hơn với TPDN phát hành riêng lẻ, đặc biệt là về đối tượng tham gia thị trường như chỉ nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp mới được giao dịch TPDN phát hành riêng lẻ…, song song với gỡ bỏ một số điều kiện phát hành, như 2 đợt phát hành phải cách nhau tối thiểu 6 tháng...
Về quản lý giao dịch của thị trường TPDN, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 57/2021/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 20/7/2021 quy định lộ trình sắp xếp lại thị trường giao dịch cổ phiếu, thị trường giao dịch trái phiếu, thị trường giao dịch chứng khoán phái sinh và thị trường giao dịch các loại chứng khoán khác. Theo đó, Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) thống nhất tổ chức thị trường giao dịch trái phiếu theo quy định tại Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành...
Hiện nay, Bộ Tài chính đang xây dựng Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP với nhiều điểm thay đổi đáng chú ý. Cụ thể, (i) Quy định thêm doanh nghiệp không được phát hành trái phiếu để góp vốn dưới mọi hình thức, mua cổ phần, mua trái phiếu của doanh nghiệp khác, hoặc cho doanh nghiệp khác vay vốn, đồng thời, bổ sung thêm quy định; (ii) Trường hợp phát hiện doanh nghiệp phát hành sử dụng tiền thu từ phát hành trái phiếu không đúng mục đích, yêu cầu doanh nghiệp phát hành trái phiếu mua lại trái phiếu trước hạn; (iii) Nâng cao điều kiện xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; (iv) Bổ sung xếp hạng tín nhiệm trong một số trường hợp phát hành trái phiếu; giới hạn nhà đầu tư cá nhân chỉ được giao dịch trái phiếu có xếp hạng tín nhiệm...
Để việc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 153/2020/NĐ-CP phù hợp với thực tiễn, một số điểm cần xem xét kỹ hơn trên cơ sở tham khảo thêm kinh nghiệm quốc tế, như tại Singapore và Hàn Quốc.
Thứ nhất, tại Singapore, cơ quan quản lý đã đưa ra nhiều giải pháp hỗ trợ cho cả nhà phát hành cũng như nhà đầu tư. Singapore cũng có 2 dạng phát hành TPDN, yêu cầu với từng loại phát hành (tương tự Việt Nam) là phát hành ra công chúng với những điều kiện chặt chẽ hơn (bản cáo bạch được chấp thuận bởi cơ quan tiền tệ Singapore MAS) và phát hành riêng lẻ (không yêu cầu bản cáo bạch) dành cho nhà đầu tư tổ chức và nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp.
Để khuyến khích sự phát triển lành mạnh của thị trường TPDN, Singapore đã áp dụng nhiều biện pháp hiệu quả dành cho cả nhà đầu tư và nhà phát hành. Với nhà đầu tư, Singapore đã đưa ra cơ chế cho phép nhà đầu tư cá nhân mua TPDN phát hành riêng lẻ trên thị trường thứ cấp nếu trái phiếu đã được giao dịch trên sàn từ 6 tháng trở lên, có xếp hạng tối thiểu BBB và doanh nghiệp phát hành đã phát hành 500 triệu SGD trái phiếu. Đồng thời, một số chính sách được đưa ra để khuyến khích doanh nghiệp có chất lượng tín dụng tốt tham gia phát hành TPDN là miễn trừ cáo bạch trong những trường hợp doanh nghiệp phát hành công chúng nếu họ có định hạng AA- trở lên và đã phát hành ít nhất 1 tỷ SGD trong 5 năm gần nhất hoặc hỗ trợ chi phí cho các doanh nghiệp phát hành tùy theo quy mô phát hành.
Điểm cần chú ý là các chính sách hỗ trợ đơn vị phát hành luôn khuyến việc thực hiện định hạng tín nhiệm để tăng tính minh bạch của thị trường thông qua các chính sách hỗ trợ khác biệt lớn giữa các doanh nghiệp phát hành có định hạng và không có định hạng. Theo đó, các đơn vị phát hành trái phiếu lần đầu tiên có thể nhận được hỗ trợ 200 nghìn SGD với phát hành không có định hạng và 400 nghìn SGD với phát hành có định hạng. Nếu quy mô phát hành lớn (hơn 1 tỷ SGD), thì khoản hỗ trợ có thể tăng lên gấp đôi, lần lượt 400 nghìn và 800 nghìn SGD. Như vậy, hỗ trợ chi phí định hạng tín nhiệm có thể lên tới 400 nghìn SGD cho mỗi đợt phát hành.
Thứ hai, tại Hàn Quốc, các quy định tập trung vào giúp định hướng các nhà đầu tư tiếp cận thị trường phù hợp với năng lực. Theo đó, dạng phát hành trái phiếu được phân theo số lượng nhà đầu tư đăng ký tham gia. Mỗi đợt phát hành với 50 nhà đầu tư trở lên sẽ được coi là phát hành ra công chúng và cần đáp ứng những yêu cầu nghiêm ngặt hơn của cơ quan quản lý. Điều này giúp hạn chế việc phát hành riêng lẻ đến số lượng lớn nhà đầu tư và đảm bảo rằng với các TPDN phát hành đến nhiều nhà đầu tư thì hồ sơ pháp lý phải đầy đủ.
Đồng thời, để chuyên biệt thị trường, các cá nhân đều không được xem là nhà đầu tư chuyên nghiệp (khác với Singapore và Việt Nam). Hàn Quốc đã thành lập hệ thống nhà đầu tư tổ chức đạt chuẩn (Qualified Institutional Buyers - QIB) từ năm 2012. Theo đó, định nghĩa “nhà đầu tư chuyên nghiệp” được dành cho Chính phủ, Ngân hàng trung ương, các định chế tài chính và các công ty niêm yết. Từ năm 2016, thị trường chứng khoán nợ dành riêng cho QIB đã được thành lập, áp dụng tiêu chuẩn quốc tế về công bố thông tin (sử dụng tiếng Anh, các biểu mẫu công bố thông tin theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế…).
Giải pháp phát triển, lành mạnh hóa thị trường TPDN Việt Nam
Thị trường TPDN Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển, và đã ghi nhận những dấu hiệu tích cực trong thời gian qua. Tuy nhiên, thị trường còn một số yếu điểm lớn cần khắc phục về hành lang pháp lý và quy chế quản lý thị trường, hạ tầng thị trường (hệ thống giao dịch, công ty định hạng tín nhiệm...), cũng như nền tảng nhà đầu tư. Để góp phần cho sự phát triển lành mạnh thị trường trong thời gian tới, một số giải pháp có thể được cân nhắc gồm:
Một là, để đảm bảo chất lượng TPDN được phát hành, cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý và quy chế quản lý thị trường phù hợp. Trong đó, dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 153/NĐ-CP đã bổ sung quy định về xếp hạng tín nhiệm đối với một số loại trái phiếu có rủi ro cao như: trường hợp phát hành trái phiếu cho nhà đầu tư cá nhân, phát hành trái phiếu không có tài sản bảo đảm, không có bảo lãnh thanh toán, doanh nghiệp phát hành có kết quả kinh doanh của năm liền trước năm phát hành lỗ hoặc có lỗ lũy kế tính đến năm phát hành. Song, cũng nên cân nhắc bổ sung các chính sách khuyến khích định hạng tín nhiệm (tương tự như Singapore), công bố thông tin định hạng tín nhiệm cho doanh nghiệp nói chung (không chỉ cho phát hành TPDN)...
Hai là, khuyến khích các doanh nghiệp tốt huy động vốn qua thị trường TPDN thông qua xem xét đưa ra những quy định miễn giảm thủ tục cho các doanh nghiệp đạt chuẩn khi thực hiện phát hành ra công chúng; miễn định hạng tín nhiệm cho một số doanh nghiệp đã có xếp hạng tín nhiệm của các tổ chức định hạng tín nhiệm quốc tế (như Moody’s, S&P… tương tự như Singapore); tiếp tục đơn giản hóa quy trình, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ (xem xét tối đa chỉ cần 14 ngày kể từ khi doanh nghiệp nộp đủ hồ sơ); cho phép doanh nghiệp phát hành nhiều đợt với 1 lần nộp hồ sơ nếu phù hợp… Hơn nữa, việc dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 153/NĐ-CP cấm doanh nghiệp phát hành TPDN, để góp vốn dưới mọi hình thức, mua cổ phần, mua trái phiếu của doanh nghiệp khác, hoặc cho doanh nghiệp khác vay vốn... có thể sẽ gây cản trở cho việc hoạt động chính đáng của các doanh nghiệp theo Luật Đầu tư, đặc biệt là các TCTD. Do đó, có thể cân nhắc bỏ điều này.
Ba là, hoàn thiện hạ tầng của thị trường TPDN như: thị trường thứ cấp tập trung, các công ty định hạng tín nhiệm… Do đó, dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 153/NĐ-CP cũng nên cân nhắc đến việc bổ sung quy định về điều kiện của các doanh nghiệp định hạng tín nhiệm, cũng như khuyến khích gia tăng số lượng, năng lực của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đóng vai trò quan trọng giúp cho thị trường trở nên lành mạnh hơn; đặc biệt là có thể giúp gia tăng niềm tin của nhà đầu tư, thu hút thêm nhiều đối tượng tham gia thị trường.
Bốn là, phát triển nền tảng nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Theo đó, Việt Nam có thể xem xét điều kiện để trở thành nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp phù hợp với đặc điểm thị trường. Trong điều kiện thông tin trên thị trường còn thiếu minh bạch và chưa hệ thống, thì tiêu chuẩn nhà đầu tư chuyên nghiệp cần phải ở mức cao, đòi hỏi kiến thức và kỹ năng tìm kiếm, đánh giá thông tin tốt (tương tự như Hàn Quốc là các tổ chức tài chính lớn thay vì số tiền đầu tư tối thiểu/thu nhập chịu thuế như hiện nay) và khuyến khích sự phát triển của các nhà đầu tư tổ chức như: quỹ đầu tư, quỹ mở, quỹ hưu trí…
Năm là, hoàn thiện cơ chế quản lý và giám sát thị trường. Việc rà soát thường xuyên, áp dụng chế tài thích hợp với các biểu hiện lách luật, sử dụng vốn sai mục đích... cần thực thi nghiêm túc, để đảm bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường. Đồng thời, cơ quan quản lý cũng cần có những khuyến nghị kịp thời đến các nhà đầu tư những biểu hiện, mầm mống rủi ro trên thị trường..., để giúp thị trường phát triển lành mạnh, an toàn.
Sáu là, cải thiện chất lượng nhà đầu tư cá nhân trên thị trường thông qua tăng cường giáo dục tài chính cho người dân và những nhà đầu tư mới, minh bạch thông tin cung cấp đến các nhà đầu tư…, để giúp họ nhận diện các rủi ro của thị trường, có thể đưa ra quyết định phù hợp với khẩu vị rủi ro, từ đó tránh những hệ lụy không đáng có...
Cuối cùng, thị trường TPDN Việt Nam là một cấu phần không thể tách rời của thị trường tài chính. Việc quản lý, định hướng phát triển cần được gắn chặt với hệ thống tài chính; việc áp dụng các quy chuẩn công bố thông tin, an toàn hệ thống... cần được giám sát chặt chẽ bởi cơ quan quản lý một cách phù hợp./.
Bình luận