Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Dấu ấn trên chặng đường 16 năm
Sau 16 năm kể từ khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) (2001-2017), Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa đã chính thức ghi nhận vai trò quan trọng của khu vực DNNVV đối với nền kinh tế quốc dân trong một văn bản luật.
Nghị định số 90/2001/NĐ-CP: Viên gạch đầu tiên
Khái niệm DNNVV bắt đầu được đề cập đến ở Việt Nam từ những năm 90 của thế kỷ trước, nhưng đến năm 2001, định nghĩa chính thức về DNNVV mới được quy định tại một văn bản pháp luật, đó là Nghị định số 90/2001/NĐ-CP, ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển DNNVV. Theo Nghị định số 90, DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.
Nghị định số 90/2001/NĐ-CP cũng quy định 6 điều về các chính sách trợ giúp phát triển DNNVV, bao gồm:
- Điều 6 quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu tư. Theo đó, Chính phủ trợ giúp đầu tư thông qua biện pháp về tài chính, tín dụng, áp dụng trong một thời gian nhất định đối với các DNNVV đầu tư vào một số ngành nghề, bao gồm ngành nghề truyền thống và tại các địa bàn cần khuyến khích.
- Điều 7 quy định về việc thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng DNNVV và giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng đề án tổ chức và Quy chế hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng DNNVV trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
- Điều 8 quy định về mặt bằng sản xuất. Theo đó, quy định các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV có mặt bằng sản xuất phù hợp; dành quỹ đất và thực hiện các chính sách khuyến khích để xây dựng các khu, cụm công nghiệp cho các DNNVV có mặt bằng xây dựng tập trung cơ sở sản xuất hoặc di dời từ nội thành, nội thị, bảo đảm cảnh quan môi trường, đồng thời DNNVV cũng được hưởng các chính sách ưu đãi trong việc thuê đất, chuyển nhượng, thế chấp và các quyền khác về sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật.
- Điều 9 về thị trường và tăng khả năng cạnh tranh quy định các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tạo điều kiện để DNNVV tiếp cận các thông tin về thị trường, giá cả hàng hoá, giúp DNNVV mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm, đồng thời cũng tạo điều kiện để các doanh nghiệp này tham gia cung ứng hàng hoá và dịch vụ theo kế hoạch mua sắm bằng nguồn ngân sách nhà nước. Chính phủ cũng khuyến khích thầu phụ công nghiệp, tăng cường sự liên kết giữa DNNVV với doanh nghiệp khác, nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh. Chính phủ cũng tạo điều kiện cho các DNNVV đổi mới công nghệ, trang thiết bị, máy móc, phát triển sản phẩm mới, hiện đại hoá quản lý, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
- Điều 10 quy định Nhà nước khuyến khích DNNVV tăng cường xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV liên kết hợp tác với nước ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ. Thông qua chương trình trợ giúp xúc tiến xuất khẩu, trợ giúp một phần chi phí cho DNNVV khảo sát, học tập, trao đổi hợp tác và tham dự hội chợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm, tìm hiểu thị trường ở nước ngoài. Chi phí trợ giúp được bố trí trong Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu.
- Điều 11 về thông tin, tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực. Theo đó, quy định Chính phủ, các bộ, ngành và UBND địa phương cung cấp các thông tin cần thiết qua các ấn phẩm và qua internet cho các DNNVV. Chính phủ sẽ trợ giúp kinh phí để tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực cho DNNVV thông qua chương trình trợ giúp đào tạo.
Như vậy, Nghị định số 90/2001/NĐ-CP bước đầu đã đưa ra được các chính sách, biện pháp chủ yếu, nhằm hỗ trợ DNNVV khắc phục khó khăn do quy mô nhỏ bé trong việc tiếp cận các nguồn lực cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đây cũng là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên đưa ra định nghĩa chính thức về DNNVV và quy định nhiệm vụ cho Chính phủ, các bộ ngành, địa phương trong công cuộc hỗ trợ, phát triển khu vực DNNVV.
Nghị định số 56/2009/NĐ-CP: Tái xác định các chính sách cần thiết cho DNNVV
Sau 8 năm triển khai Nghị định 90 (từ 2001-2009), Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đánh giá tình hình thực hiện Nghị định này và nhận thấy cần phải có một văn bản quy phạm pháp luật mới, quy định chi tiết hơn các loại hình doanh nghiệp theo quy mô khác nhau, đồng thời đưa ra các lĩnh vực hỗ trợ sát thực tế hơn, nhằm tăng cường hơn nữa năng lực cạnh tranh cho DNNVV Việt Nam. Đây chính là lý do Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ra đời ngày 30/06/2009. Nghị định này quy định: DNNVV là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)
Nghị định này cũng quy định 8 điều về các chính sách và biện pháp nhằm hỗ trợ, phát triển khu vực DNNVV trong các lĩnh vực, bao gồm:
- Điều 7 về trợ giúp tài chính, khuyến khích thành lập và xây dựng cơ chế khuyến khích và dành một số dự án hỗ trợ kỹ thuật để tăng cường năng lực cho các tổ chức tài chính phù hợp mở rộng tín dụng cho DNNVV, đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ phù hợp với DNNVV, DNNVV từ ngân sách nhà nước, các tổ chức trong và ngoài nước để tài trợ các chương trình giúp nâng cao nâng lực cạnh tranh cho DNNVV, chú trọng hỗ trợ hoạt động đổi mới phát triển sản phẩm có tính cạnh tranh cao và thân thiện với môi trường; đầu tư, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến; phát triển công nghiệp hỗ trợ; nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp.
- Điều 8 về mặt bằng sản xuất, quy định các địa phương dành quỹ đất và thực hiện các biện pháp khuyến khích xây dựng các khu, cụm công nghiệp cho DNNVV thuê làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh hoặc di dời ra khỏi nội thành, nội thị để bảo đảm cảnh quan môi trường.
- Điều 9 về đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật, quy định Chính phủ khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới thiết bị kỹ thuật theo chiến lược phát triển và mở rộng sản xuất của các DNNVV đối với các sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Đồng thời, nâng cao năng lực công nghệ của các DNNVV thông qua chương trình hỗ trợ nghiên cứu, phát triển công nghệ sản xuất các sản phẩm mới, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất. Ngoài ra, Nghị định cũng quy định Bộ Khoa học và Công nghệ, Quỹ Phát triển Khoa học công nghệ quốc gia, các địa phương dành kinh phí hỗ trợ DNNVV trong một số hoạt động khoa học, công nghệ. Luật quy định việc dành ngân sách cho việc triển khai các hoạt động xúc tiến mở rộng thị trường cho DNNVV.
- Điều 11 về mua sắm, cung ứng dịch vụ công, quy định Chính phủ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương dành tỷ lệ nhất định cho DNNVV thực hiện các hợp đồng hoặc đơn đặt hàng để cung cấp một số hàng hóa, dịch vụ công. Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ sẽ ban hành cơ chế khuyến khích DNNVV tham gia cung ứng sản phẩm, dịch vụ công theo đề nghị của Bộ Tài chính.
- Điều 12 về thông tin và tư vấn, quy định việc cung cấp thông tin về các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp, các chính sách, chương trình trợ giúp phát triển DNNVV và các thông tin khác hỗ trợ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua cổng thông tin điện tử. Ngoài ra, cơ quan chủ trì có trách nhiệm gửi thông tin về chính sách và chương trình đó tới Cổng Thông tin doanh nghiệp của cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp phát triển DNNVV 30 ngày làm việc trước khi triển khai thực hiện các chính sách, chương trình trợ giúp.
- Điều 13 về trợ giúp phát triển nguồn nhân lực.
- Điều 14 quy định việc khuyến khích thành lập vườn ươm doanh nghiệp. Trong đó, Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng chính sách ưu tiên các DNNVV tham gia các “cơ sở ươm tạo công nghệ” và “cơ sở ươm tạo doanh nghiệp công nghệ”.
Như vậy, Nghị định số 56 đã thể hiện nỗ lực của Chính phủ trong việc tái xác định các chính sách cần thiết cho DNNVV, như: tiếp cận tài chính, mặt bằng sản xuất, đào tạo, tư vấn, thông tin; đồng thời, xác định thêm các vấn đề quan trọng cần đến sự can thiệp của Chính phủ để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho DNNVV, như: khoa học, công nghệ và mua sắm công. Trong quá trình triển khai Nghị định số 56, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã phối hợp với Bộ Tài chính ban hành hai Thông tư liên bộ quy định chi tiết việc triển khai các hoạt động đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho DNNVV.
Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Bước tiến vượt bậc!
Mặc dù việc triển khai áp dụng Nghị định số 56 về hỗ trợ DNNVV đã đạt được một số kết quả tích cực trong việc hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh cho DNNVV. Tuy nhiên, vẫn bộc lộ một số bất cập, như: hiệu lực thực thi chưa cao, dẫn đến việc thực hiện hỗ trợ DNNVV trong thực tiễn chưa hiệu quả; các chính sách còn mang tính khuyến khích chung, chưa cụ thể dẫn đến kết quả hỗ trợ còn hạn chế, chính sách hỗ trợ chưa đi vào cuộc sống; Cơ chế điều phối hoạt động hỗ trợ DNNVV giữa các bộ, ngành, giữa Trung ương và địa phương chưa hiệu quả; Hệ thống cơ quan, tổ chức thực hiện hỗ trợ DNNVV từ Trung ương đến địa phương chưa được hình thành đầy đủ, nhất quán…
Nghị định số 56 đã xuất hiện nhiều bất cập dẫn đến việc hỗ trợ DNNVV gặp khó khăn |
Những hạn chế nêu trên đã làm cho những chính sách và chương trình hỗ trợ của Nhà nước chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu hỗ trợ phát triển của cộng đồng DNNVV. Trong khi đó, các DNNVV rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước để phát triển, nâng cao sức cạnh tranh, góp phần tích cực vào việc tạo ra việc làm và thu nhập, đóng góp vào quá trình chuyển dịch mô hình tăng trưởng, tạo ra một nền kinh tế năng động và hiệu quả.
Để khắc phục những hạn chế trên, nhằm cụ thể hoá chủ trương của Đảng và Nhà nước được nêu trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011-2015, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020; Nghị quyết Đại hội Đảng khoá XII; một số Nghị quyết trung ương số 14-NQ/TW (khóa IX), ngày 18/03/2002; và Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 09/12/2011 của Bộ Chính trị; đồng thời học hỏi kinh nghiệm về hỗ trợ phát triển DNNVV tại những nền kinh tế phát triển, cũng như các nền kinh tế đang phát triển, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được cơ quan soạn thảo là Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành xây dựng.
Cuối năm 2015, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Quyết định số 1279/QĐ-BKHĐT, ngày 26/11/2015 về việc thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập dự án Luật. Ban soạn thảo do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm Trưởng ban đã khẩn trương chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho công tác soạn thảo dự án Luật theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Cơ quan soạn thảo đã tổ chức tổng kết, đánh giá tình hình xây dựng khung pháp luật hỗ trợ DNNVV và thực tiễn triển khai thời gian vừa qua, bao gồm rà soát các cam kết quốc tế liên quan đến hỗ trợ DNNVV mà Việt Nam là thành viên; nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và trong khu vực về công tác hỗ trợ DNNVV. Bên cạnh đó, việc khảo sát, đánh giá thực tiễn nhu cầu hỗ trợ của các DNNVV trong một số ngành, lĩnh vực điển hình cũng đã được triển khai.
Trên 40 hội thảo, cuộc họp, toạ đàm đã được tổ chức với sự tham gia đại diện của các bộ ngành, địa phương, tổ chức hiệp hội đại diện cộng đồng DNNVV, tổ chức quốc tế, nhà khoa học, chuyên gia trong các ngành, lĩnh vực đối với các nội dung của dự thảo Luật. Dự thảo Luật cũng được đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử của Quốc hội, Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tham khảo ý kiến cộng đồng doanh nghiệp.
Dự thảo Luật đã được Hội đồng thẩm định do Bộ Tư pháp chủ trì tiến hành thẩm định và có Báo cáo thẩm định dự án Luật số 223/BC-HĐTĐ, ngày 19/08/2016. Chính phủ thảo luận và cho ý kiến đối với dự thảo Luật tại các phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 07/2016 và tháng 08/2016. Dự thảo Luật được thảo luận và cho ý kiến tại các phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa XIV tháng 10/2016 và tháng 04/2017 trước khi trình các đại biểu quốc hội thảo luận và cho ý kiến tại kỳ họp thứ 2 và kỳ họp thứ 3. Theo đó, sáng ngày 12/06/2017, Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa đã chính thức được Quốc hội thông qua, với tỷ lệ 410/422 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, đạt tỷ lệ 83,5% tổng số đại biểu. Luật gồm 4 chương, 35 điều và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018. Cụ thể:
Chương 1: Những quy định chung, quy định về phạm vi, đối tượng điều chỉnh, tiêu chí xác định DNNVV, nguyên tắc hỗ trợ DNNVV, nguồn vốn hỗ trợ DNNVV và những hành vi bị cấm trong hỗ trợ DNNVV. Ngoài tiêu chí xác định DNNVV được quy định tại Điều 4 của Luật, Điều 5 quy định các nguyên tắc hỗ trợ DNNVV, theo đó: việc hỗ trợ DNNVV phải tôn trọng quy luật thị trường, bảo đảm công khai, minh bạch về nội dung, đối tượng, trình tự, thủ tục, nguồn lực, mức hỗ trợ và kết quả thực hiện; Nhà nước hỗ trợ DNNVV có trọng tâm, có thời hạn, phù hợp với mục tiêu hỗ trợ và khả năng cân đối nguồn lực; trường hợp DNNVV đồng thời đáp ứng điều kiện của các mức hỗ trợ khác nhau trong cùng một nội dung hỗ trợ, thì doanh nghiệp được lựa chọn mức hỗ trợ có lợi nhất; ưu tiên lựa chọn DNNVV do nữ làm chủ, DNNVV sử dụng nhiều lao động nữ hơn…
Chương 2: Nội dung hỗ trợ DNNVV, quy định một số nội dung hỗ trợ chung tại Mục 1: Hỗ trợ tiếp cận tín dụng (Điều 8); Hỗ trợ thuế, kế toán (Điều 10); Hỗ trợ mặt bằng sản xuất (Điều 11); Hỗ trợ cơ sở ươm tạo, kỹ thuật, khu làm việc chung (Điều 12); Hỗ trợ mở rộng thị trường (Điều 13); Hỗ trợ thông tin, tư vấn, pháp lý (Điều 14); Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực (Điều 15); và 3 nội dung hỗ trợ trọng tâm tại Mục 2: DNNVV chuyển đổi từ hộ kinh doanh (Điều 16), DNNVV khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (Điều 17) và DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị (Điều 19). Đây chính là điểm mới quan trọng trong Luật Hỗ trợ DNNVV so với các văn bản pháp lý về trợ giúp phát triển DNNVV trước đây. Cụ thể:
- Đối với DNNVV chuyển đổi từ hộ kinh doanh. Đối tượng này được hỗ trợ nhằm mục tiêu thúc đẩy các hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp nhằm gia tăng tính minh bạch, cơ hội tiếp cận các nguồn lực và hỗ trợ cho đối tượng này phát triển, qua đó tạo việc làm, thu nhập, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp, người lao động và các bên liên quan, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Hộ kinh doanh khi thực hiện thủ tục thành lập doanh nghiệp được Cơ quan đăng ký kinh doanh tư vấn miễn phí về hồ sơ, hỗ trợ thủ tục đăng ký chuyển đổi; được miễn lệ phí đăng ký doanh nghiệp; miễn lệ phí các giấy phép kinh doanh có điều kiện lần đầu. doanh nghiệp được thành lập từ hộ kinh doanh kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của hộ kinh doanh; trường hợp thành lập công ty TNHH hoặc công ty cổ phần, hộ kinh doanh chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản và cam kết thanh toán đủ nghĩa vụ tài chính khi đến hạn; được hỗ trợ tư vấn, đào tạo miễn phí về thuế, kế toán trong thời hạn 3 năm kể từ thời điểm chuyển đổi; được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp…
- Đối với DNNVV khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Đối tượng này được hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao công nghệ, hoàn thiện sản phẩm thử nghiệm và các tiêu chuẩn của sản phẩm, hỗ trợ sử dụng trang thiết bị tại các cơ sở kỹ thuật hỗ trợ DNNVV, hỗ trợ tham gia các cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung dành cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Các DNNVV này cũng được hỗ trợ đào tạo, huấn luyện chuyên sâu về xây dựng, phát triển sản phẩm; gọi vốn đầu tư; tư vấn về sở hữu trí tuệ, thực hiện các thủ tục về tiêu chuẩn đo lường chất lượng. Trong từng thời kỳ, Chính phủ thực hiện cấp bù lãi suất để hỗ trợ khoản vay đối với các DNNVV khởi nghiệp sáng tạo. Việc cấp bù lãi suất được thực hiện qua các tổ chức tín dụng…
Luật cũng quy định về Quỹ Đầu tư khởi nghiệp sáng tạo tại Điều 18, theo đó đây là Quỹ hình thành từ vốn góp hợp pháp của các nhà đầu tư với mục đích đầu tư vào các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân khởi nghiệp sáng tạo. Quỹ Đầu tư khởi nghiệp sáng tạo tư nhân thực hiện đầu tư thông qua hình thức góp vốn thành lập, mua cổ phần, phần vốn góp của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
- DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị. Đối tượng này được đào tạo chuyên sâu về trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất tại hiện trường; tư vấn thông tin, quy chuẩn, tiêu chuẩn chất lượng, xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm theo chuỗi giá trị, cụm liên kết ngành. Các DNNVV này được cung cấp thông tin về doanh nghiệp, nhu cầu đầu vào, đầu ra nhằm thúc đẩy kết nối mạng lưới, liên kết trong chuỗi giá trị, cụm liên kết ngành; được hỗ trợ phát triển thương hiệu, mở rộng thị trường sản phẩm của chuỗi giá trị và cụm liên kết ngành. Trong từng thời kỳ, Chính phủ thực hiện cấp bù lãi suất để hỗ trợ khoản vay đối với các DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị. Việc cấp bù lãi suất được thực hiện qua các tổ chức tín dụng…
Chương 3: Trách nhiệm trong hoạt động hỗ trợ DNNVV, quy định trách nhiệm của Chính phủ (Điều 21); của một số bộ liên quan trực tiếp (từ Điều 22-25); của chính quyền địa phương cấp tỉnh (Điều 25); của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp (Điều 26); của tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ (Điều 27); của DNNVV (Điều 28); công khai, giám sát, đánh giá DNNVV (29-31); và xử lý vi phạm (Điều 32).
Chương 4: Điều khoản thi hành, gồm có nội dung sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan, như: Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, quy định hiệu lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp.
Để Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa sớm đi vào cuộc sống, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng 4 nghị định hướng dẫn thi hành Luật. Trong đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao trách nhiệm xây dựng dự thảo 3 nghị định; Bộ Tài chính 1 dự thảo nghị định (về hướng dẫn Điều 9 của Luật về quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV).
Các dự thảo nghị định mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao xây dựng, bao gồm: (1) Nghị định hướng dẫn một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (Điều 4: Tiêu chí xác định DNNVV, Điều 14: Hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý, Điều 15: Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, Điều 16: Hỗ trợ DNNVV chuyển đổi từ hộ kinh doanh, Điều 17: Hỗ trợ DNNVV khởi nghiệp sáng tạo, Điều 19: Hỗ trợ DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị); (2) Nghị định hướng dẫn Điều 18 về đầu tư cho DNNVV khởi nghiệp sáng tạo; và (3) Nghị định hướng dẫn Điều 20 về Quỹ Phát triển DNNVV. Hiện nay, dự thảo 03 Nghị định này đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ xem xét, trong đó 2 nghị định đã được lấy ý kiến các thành viên Chính phủ trước khi ban hành. Bộ Tài chính được Chính phủ giao nhiệm vụ xây dựng dự thảo Nghị định hướng dẫn Điều 9 của Luật về quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV.
Như vậy, với những bước tiến về chính sách trên, mong rằng Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, cùng các văn bản hướng dẫn thi hành sẽ đem lại sức sống mới cho khu vực DNNVV Việt Nam, góp phần mạnh mẽ và tích cực vào phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế đất nước./.
Bình luận