Từ khóa: đầu tư nước ngoài, xúc tiến đầu tư, kiến nghị, giải pháp

Summary

In the context of the world economy facing many difficulties after the Covid-19 pandemic, Vietnam also faces many drawbacks in foreign investment activities. This stems from a number of shortcomings and limitations in operations, institutions, investment promotion and in state management of investment. Based on examining the FDI attraction situation in 2022 and the first 9 months of 2023, the article proposes a number of recommendations and solutions in the coming time.

Keywords: foreign investment, investment promotion, recommendations, solutions

GIỚI THIỆU

Năm 2022, tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại, thậm chí suy giảm nhẹ trong các quý đầu năm. Nhiều nước phát triển đang thực hiện chính sách thu hút lại các nhà đầu tư về nước, đồng thời đẩy mạnh thu hút FDI, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt trong thu hút FDI không chỉ giữa các nước đang phát triển mà còn với các nước phát triển. Trong bối cảnh đó, việc thực hiện thành công Nghị quyết số 128/NQ-CP, ngày 11/10/2021 của Chính phủ quy định tạm thời "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh Covid-19” đã mang lại những thành công nhất định trong việc thu hút FDI trong năm 2022, nhưng vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Do đó, nghiên cứu về những tồn tại, hạn chế trong hoạt động thu hút FDI tại Việt Nam trong năm 2022 và tình hình 9 tháng đầu năm 2023, từ đó đưa một số kiến nghị, giải pháp là điều cần thiết hiện nay.

NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG THU HÚT FDI NĂM 2022

Về hoạt động thu hút FDI

Theo Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Năm 2022, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt gần 27,72 tỷ USD, mức vốn FDI thực hiện đạt kỉ lục 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2021. Đây là số vốn FDI thực hiện cao nhất trong 5 năm (2017-2022). Tính lũy kế trong giai đoạn 1986-2022, Việt Nam đã thu hút được gần 438,7 tỷ USD vốn FDI; trong đó, 274 tỷ USD đã được giải ngân, chiếm 62,5% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.

Tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt 27,72 tỷ USD, giảm 11% so với cùng kỳ năm 2021. Nguyên nhân thu hút FDI trong năm 2022 giảm so với năm 2021 do khó khăn chung của nền kinh tế thế giới, xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các quốc gia phát triển có dấu hiệu giảm sút. Đầu tư của các đối tác lớn, nhiều tiềm năng, như: EU, Hoa Kỳ, tại Việt Nam đã có xu hướng tăng, song vẫn còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có. Hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn do hệ lụy của tác động dịch Covid-19, đứt gãy nhiều chuỗi cung ứng sản phẩm, giá cả năng lượng, một số nguyên liệu, lãi suất và lạm phát gia tăng kéo dài gây khó khăn lớn cho hoạt động khôi phục sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung. Sự liên kết giữa khu vực FDI và các doanh nghiệp trong nước chưa có sự chuyển biến rõ rệt. Các doanh nghiệp FDI chưa có nhiều sự hỗ trợ để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị.

Lĩnh vực điện tử thu hút được nhiều dự án đầu tư mới và mở rộng dự án hiện hữu, song ngành điện tử Việt Nam vẫn đang dừng ở giai đoạn đầu trong chuỗi sản xuất sản phẩm điện tử và phụ thuộc phần lớn vào các doanh nghiệp có vốn FDI. Các doanh nghiệp trong nước chưa tham gia nhiều lĩnh vực này trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Nền kinh tế Việt Nam bước đầu đã thu hút được một số dự án lớn vào các ngành năng lượng, sản phẩm công nghệ cao, phù hợp với mục tiêu tăng trưởng xanh song còn hạn chế, chưa đảm bảo mục tiêu thu hút FDI về chất lượng và hiệu quả kinh tế xã hội. Các dự án đầu tư quy mô còn nhỏ, nằm ở khâu hạ nguồn của chuỗi giá trị, chủ yếu là gia công, công nghiệp nhẹ. Trong năm 2022, có tới 70,3% số dự án có quy mô vốn đầu tư dưới 1 triệu USD, 59,5% số dự án có vốn dưới 500 nghìn USD. Những dự án này chiếm tỷ lệ rất nhỏ về vốn đầu tư, chỉ khoảng 2% tổng vốn đầu tư mới cả nước.

Mặc dù chính sách thu hút đã đặt ra mục tiêu tiếp thu công nghệ nguồn từ các tập đoàn đa quốc gia, các nước công nghiệp phát triển hàng đầu, tuy nhiên thu hút và chuyển giao công nghệ từ khu vực FDI chưa đạt được hiệu quả mong đợi. Một số ngành, như năng lượng tái tạo, ngày càng có sự quan tâm lớn hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài sau cam kết của Chính phủ Việt Nam tại COP 26 về mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Tuy nhiên, những vướng mắc về khung pháp lý, khả năng tài chính và năng lực vận hành có thể trở thành thách thức đối với nhiều tổ chức, doanh nghiệp quan tâm đến lĩnh vực này.

Về thể chế

- Vẫn còn tồn tại các vướng mắc pháp lý về thủ tục đầu tư (Chưa có điều khoản chuyển tiếp đối với những dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định trước ngày Luật Đầu tư năm 2020 có hiệu lực thi hành; Chưa tổng hợp được các quy định của pháp luật chuyên ngành nào, pháp luật về xã hội hóa nào quy định phải tổ chức đấu thầu, gây khó khăn cho các ngành và địa phương khi xem xét các dự án đầu tư có hay không thuộc phạm vi điều chỉnh tại điểm c, Khoản 1 - Nghị định số 25/2020/NĐ-CP, ngày 28/2/2020 về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án theo quy định của pháp luật chuyên ngành, pháp luật về xã hội hóa), đất đai (pháp luật về đất đai chưa có hướng dẫn quy định cụ thể về thủ tục giao đất, cho thuê đất đối với nhà đầu tư được chấp thuận theo quy định của pháp luật về đầu tư được quy định ở khoản 3, Điều 29 - Luật Đầu tư năm 2020) làm giảm cơ hội đầu tư của nhà đầu tư, doanh nghiệp.

- Còn có sự chồng chéo, chưa thống nhất của một số văn bản pháp luật về đầu tư. Chính sách ưu đãi đầu tư đặc biệt chưa đủ hấp dẫn để thu hút các dự án quy mô lớn, chưa có chính sách ưu đãi đặc thù để thúc đẩy đầu tư trong những lĩnh vực quan trọng, như: công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, bán dẫn, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng sạch… Chưa ban hành các chính sách để vẫn đảm bảo được ưu đãi đầu tư trong khi áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu.

- Công tác theo dõi, kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của dự án đầu tư cũng như các vấn đề lao động, tài chính, ngân hàng, môi trường, xây dựng, khoa học công nghệ... chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, chưa thực sự phát huy hiệu quả.

Về công tác quản lý nhà nước về đầu tư

Việc thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm hành chính đối với việc thực hiện các quy định pháp luật của các doanh nghiệp trong quá trình triển khai dự án đầu tư còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. Việc kiểm tra, xử phạt trong khu công nghiệp còn bất cập do ban quản lý các khu công nghiệp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát thực hiện dự án đầu tư trong khu công nghiệp, nhưng khi phát hiện sai phạm, thì không đủ thẩm quyền xử lý, mà phải báo cáo, phối hợp với các cơ quan hoặc đề nghị lên UBND tỉnh xem xét quyết định.

Việc tổng hợp thông tin số liệu báo cáo còn gặp nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp chậm nộp báo cáo, số liệu trong báo cáo không đầy đủ và chính xác. Nguyên nhân là do ý thức chấp hành của doanh nghiệp trong lĩnh vực báo cáo thống kê còn chưa cao, chưa có chế tài xử lý đủ mạnh. Việc thực hiện chế độ thông tin, báo cáo về đầu tư nước ngoài của cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư ở địa phương còn nhiều bất cập; chất lượng các báo cáo còn thấp, chưa đầy đủ và cập nhật; còn tình trạng chậm cấp tài khoản báo cáo cho doanh nghiệp tại các địa phương. Cơ quan quản lý đầu tư ở địa phương chưa kết nối được trực tiếp với các doanh nghiệp FDI, chưa nắm được chính xác số liệu vốn thực hiện của từng doanh nghiệp, nên việc giám sát dự án không hiệu quả.

Về công tác XTĐT

Các chương trình, hoạt động XTĐT chưa thực sự gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và của từng địa phương; chưa có nhiều hình thức XTĐT đa dạng, áp dụng phương thức mới, hiện đại, chưa đánh giá được hiệu quả công tác XTĐT.

Chất lượng và hiệu quả XTĐT còn thấp. Hoạt động XTĐT thiếu tính chuyên nghiệp, chồng chéo giữa các bộ, ngành, địa phương, gây lãng phí nguồn lực, công tác XTĐT tại chỗ ở một số địa phương còn lúng túng, chưa chủ động. Việc bố trí các nguồn lực cho hoạt động XTĐT ở cả Trung ương và địa phương vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là về cơ sở vật chất và chất lượng nguồn nhân lực, trừ một số địa phương có điều kiện (như: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh...).

Đặc biệt, việc xây dựng, ban hành chương trình XTĐT và báo cáo kết quả triển khai chương trình XTĐT của một số địa phương còn chưa thực hiện nghiêm túc, kịp thời.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP

Tình hình thu hút FDI 9 tháng đầu năm 2023

Theo Cục Đầu tư nước ngoài, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/9/2023 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 20,21 tỷ USD, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước. Vốn FDI thực hiện tại Việt Nam 9 tháng năm 2023 ước đạt 15,91 tỷ USD, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước. Đây là số vốn FDI thực hiện cao nhất của 9 tháng trong 5 năm qua.

Điều đáng lưu ý là trong 9 tháng đầu năm 2023, tổng vốn đầu tư đăng ký tuy vẫn giảm so với cùng kỳ, song mức độ giảm đã thấp hơn so với các tháng trước. Tính theo tháng về vốn đầu tư, thì các tháng gần đây có xu hướng tăng lên.

Vốn đầu tư mới tiếp tục tăng mạnh hơn so với mức tăng trong 9 tháng đầu năm. Tốc độ tăng số dự án mới lớn hơn tốc độ tăng tổng vốn đầu tư, điều đó cho thấy: (i) Các nhà đầu tư nước ngoài quy mô vừa và nhỏ tiếp tục quan tâm, tin tưởng vào môi trường đầu tư của Việt Nam vừa đưa ra các quyết định đầu tư mới; (ii) các tập đoàn lớn hiện đang cẩn trọng, xem xét kỹ việc tiếp tục đầu tư lớn vào Việt Nam trong bối cảnh tác động của chính sách thuế tối thiểu toàn cầu. Các dự án có quy mô vốn đầu tư dưới 1 triệu USD chiếm tới 70,4% số dự án mới, song tổng vốn đầu tư chỉ chiếm 2,5% tổng vốn đầu tư đăng ký mới trong 6 tháng.

Các dự án đầu tư mới vẫn tập trung vào các tỉnh, thành phố có nhiều lợi thế trong thu hút FDI (cơ sở hạ tầng tốt, nguồn nhân lực ổn định, nỗ lực cải cách thủ tục hành chính và năng động trong công tác XTĐT…) như: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bắc Giang, Bình Dương, Hải Phòng, Bắc Ninh, Đồng Nai…

Các nhà đầu tư đến từ châu Á, các đối tác đầu tư truyền thống vẫn chiếm tỷ trọng lớn (Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan). Đáng chú ý là vốn giải ngân FDI tiếp tục tăng 2,2% so với cùng kỳ và tăng 0,5 điểm phần trăm so với 8 tháng đầu năm với mức 15,91 tỷ USD. Đây cũng là mức giải ngân cao kỷ lục 9 tháng giai đoạn 2018-2023. Điều này cho thấy, các giải pháp quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong những tháng đầu năm đã mang lại hiệu quả trong việc hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn để doanh nghiệp triển khai thực hiện giải ngân vốn đầu tư.

Cũng trong 9 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu của khu vực FDI tuy giảm, song vẫn xuất siêu và bù đắp phần nhập siêu của khu vực doanh nghiệp trong nước. Với mức xuất siêu hơn 20,9 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu gần 20 tỷ USD không kể dầu thô, khu vực này đã bù đắp phần nhập siêu gần 10,3 tỷ USD của khu vực doanh nghiệp trong nước, là bệ đỡ giúp cả nước xuất siêu khoảng 10,6 tỷ USD.

Một số kiến nghị

Qua những tồn tại, hạn chế về hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài năm 2022 và tình hình 9 tháng đầu năm 2023, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hoạt động thu hút FDI thời gian tới, cụ thể như sau:

Một là, về thể chế

Cần rà soát các nội dung không đồng bộ để đề xuất sửa đổi các luật chuyên ngành (đất đai, bất động sản, nhà ở...) để thống nhất với tinh thần cải cách của Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp; tổng hợp các vấn đề khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp để đề xuất với Chính phủ và Quốc hội về các giải pháp sửa đổi, bổ sung; nghiên cứu những chính sách thu hút đầu tư thế hệ mới, khai thác các lợi thế cạnh tranh mới, trong đó có những chính sách ưu đãi đặc thù để thúc đẩy đầu tư trong những lĩnh vực quan trọng như công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, bán dẫn, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng sạch…

Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, xây dựng cơ chế đột phá liên quan đến các chính sách về tài chính, chứng khoán, tiền tệ. Tập trung xây dựng và hoàn thiện đề án Trung tâm tài chính tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng để tạo động lực đột phá và phát triển kinh tế - xã hội; rà soát, nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách đột phá, có tính cạnh tranh, riêng biệt cho việc thúc đẩy thu hút FDI trong lĩnh vực điện tử, bán dẫn; tạo điều kiện tối đa và khuyến khích các doanh nghiệp triển khai hoạt động R&D hoặc hợp tác chuyển giao công nghệ tại Việt Nam. Việt Nam cần sớm ban hành các chính sách phù hợp để thích ứng hiệu quả, linh hoạt trước tác động của thuế tối thiểu toàn cầu, đảm bảo niềm tin của nhà đầu tư, duy trì sự hấp dẫn của môi trường đầu tư kinh doanh, đồng thời tận dụng những hiệu quả của chính sách thuế này đối với phát triển kinh tế. Triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như:

- Nghiên cứu khả năng hợp tác với các nước đang phát triển khác để đàm phán: Các điều kiện hạn chế/ngoại lệ nhằm bảo vệ các lợi ích ưu đãi thuế của nhà đầu tư nước ngoài trong các ngành cụ thể (ví dụ: mức độ sử dụng lao động, chuyển giao công nghệ để hiện đại hóa phát triển kinh tế...); hoặc có giai đoạn chuyển tiếp/gia hạn đăng ký (ví dụ 2-3 năm) đối với đầu tư vào các nước đang phát triển; nguyên tắc bất hồi tố đối với các dự án đã được cấp trước khi thuế tối thiểu toàn cầu có hiệu lực.

- Xem xét sửa đổi các luật thuế để đưa ra các chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư mới mà các nước đang triển khai áp dụng, như: ưu đãi dựa trên chi phí (cash grant), tăng ưu đãi thuế nhập khẩu, tăng thời gian hưởng ưu đãi tiền thuê đất, miễn giảm thuế khác, như: thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng... Đồng thời, trao đổi với các nhà đầu tư lớn thuộc đối tượng chịu ảnh hưởng của thuế tối thiểu toàn cầu về các phương án hỗ trợ dự kiến để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư cũng như cho thấy sự đồng hành của Chính phủ với doanh nghiệp.

- Nghiên cứu bản hướng dẫn của OECD về việc áp dụng thuế suất tối thiểu toàn cầu để có các giải pháp thực hiện phù hợp với bối cảnh Việt Nam.

Ngoài ra, cần thực hiện đồng bộ nhóm giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo sự tin tưởng cho nhà đầu tư nước ngoài, như: nới lỏng chính sách thị thực; cấp giấy phép lao động; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, thuế, hải quan...

Hai là, về XTĐT

Cần tập trung vào 5 nhóm giải pháp trọng tâm nhằm tháo gỡ điểm nghẽn, tiếp tục phát huy các nền tảng tạo lập, từ đó nâng cao hơn nữa chất lượng công tác XTĐT. Cụ thể là:

(i) Nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, tổng hợp, phân tích và dự báo tình hình, như: tiếp tục cập nhật, nâng cấp hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác XTĐT; kịp thời tổng hợp thông tin về tình hình diễn biến kinh tế, đầu tư tại các nước và khu vực trong năm 2023 để có những đánh giá về xu hướng, từ đó có những giải pháp định hướng, phương pháp XTĐT phù hợp, hiệu quả.

(ii) Xây dựng Kế hoạch XTĐT theo hướng chọn lọc, khả thi, hiệu quả và có tầm nhìn. Nghiên cứu, hướng dẫn Xây dựng chương trình XTĐT đảm bảo phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội 6 vùng kinh tế; quy hoạch tỉnh, thành phố mới được ban hành; các hình thức XTĐT đa dạng, hiện đại, hiệu quả, đặc biệt là có sự gắn kết chặt chẽ với các chương trình xúc tiến khác, như: xúc tiến thương mại, xúc tiến du lịch… Đảm bảo sự thống nhất, hỗ trợ kết nối hiệu quả giữa các hoạt động XTĐT của quốc gia, của bộ, ngành và địa phương Tuyệt đối không để tình trạng mạnh ai nấy làm, cạnh tranh lẫn nhau, hoạt động XTĐT phải theo đúng định hướng từ Trung ương đến địa phương.

(iii) Nâng cao chất lượng hoạt động XTĐT: Cập nhật kịp thời các thông tin để quảng bá môi trường đầu tư Việt Nam trên website, youtube, facebook; liên tục cập nhật các ấn phẩm XTĐT, như: guidebook, tờ rơi… Tăng cường công tác đào tạo, nâng cao trình độ ngoại ngữ, kỹ năng XTĐT cho cán bộ thực hiện XTĐT. Đa dạng hóa các hình thức XTĐT, trong đó áp dụng các hình thức hiện đại, ứng dụng CNTT; kết nối chặt chẽ với các tổ chức tài chính, công ty tư vấn quốc tế lớn để khai thác mạng lưới khách hàng, huy động nguồn lực tài chính xanh, tài chính cho khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo.

(iv) Đẩy mạnh công tác XTĐT tại chỗ. Các địa phương chỉ đạo sát sao việc tiếp nhận, chủ động phát hiện khó khăn, vướng mắc để có biện pháp xử lý nhanh chóng, kịp thời cho nhà đầu tư. Gắn trách nhiệm người đứng đầu đối với hiệu quả thực hiện XTĐT tại chỗ của mình. Tổ công tác của Chính phủ thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương để đôn đốc hỗ trợ và kịp thời xử lý vướng mắc, đánh giá và có chấn chỉnh ngay đối với những địa phương chưa làm tốt công tác này.

(v) Khai thác, phát huy tối đa hiệu quả các đầu mối cơ quan đại diện tại nước ngoài. Tạo sự phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau giữa các đại diện XTĐT, thương vụ, cơ quan đại diện ở nước ngoài và VCCI…

Ba là, chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện cần thiết để thu hút những dự án đầu tư thực sự có ý nghĩa trong trong làn sóng đầu tư hiện nay. Việt Nam cần rà soát, bổ sung quỹ đất sạch, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, logistic; rà soát về năng lượng để đảm bảo cung cấp đủ năng lượng cho các dự án đầu tư. Chính phủ cần phải có các chính sách tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là trong lĩnh vực điện tử, công nghệ thông tin, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và hỗ trợ hiệu quả nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước, đặc biệt trong các ngành công nghiệp phụ trợ, giúp doanh nghiệp Việt Nam hợp tác hiệu quả với doanh nghiệp FDI, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu./.

Vũ Thị Phương Thảo, Nguyễn Ngọc Kim Cương

Khoa Luật – Học viện Cảnh sát nhân dân

(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 28, tháng 10/2023)


TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Quốc hội (2020), Luật Đầu tư, số 61/2020/QH14, ngày 17/06/2020.

2. Quốc hội (2013), Luật Đất đai, số 45/2013/QH13, ngày 29/11/2013.

3. Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2022), Báo cáo tình hình đầu tư nước ngoài năm 2022.

4. Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2023), Báo cáo tình hình đầu tư nước ngoài 9 tháng đầu năm 2023.