GS, TS. Ngô Thế Chi

Học viện Tài chính

TS. Hoàng Thị Huyền - Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp

Email: hthuyen@uneti.edu.vn

Tóm tắt

Khoa học và công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số quốc gia là động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự hình thành và phát triển các ngành, nghề, lĩnh vực mới; góp phần thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; làm thay đổi cơ cấu sản xuất của các ngành, nghề, tạo ra sự phân công lao động hợp lý để tăng năng suất lao động. Bài viết khái quát thực trạng phát triển KHCN, ĐMST và chuyển đổi số trong thời gian qua, từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển cho giai đoạn tiếp theo.

Từ khóa: phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số

Summary

Science and technology, innovation, and national digital transformation are crucial driving forces for socio-economic development. They promote the formation and development of new industries, occupations, and fields, contribute to fostering growth and economic restructuring, change the production structure of industries and occupations, and create a reasonable division of labor to increase labor productivity. The article summarizes the current situation of science and technology development, innovation, and digital transformation in recent times, thereby proposing several development solutions for the next stage.

Keywords: science and technology development, innovation, digital transformation

GIỚI THIỆU

Trong thời gian qua Đảng ta rất quan tâm đến phát triển KHCN. Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “về phát triển KHCN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa” đã nêu ra quan điểm: Phát triển và ứng dụng KHCN là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một trong những nội dung được ưu tiên đầu tư trước một bước trong họat động của các ngành, các cấp. Đại hội Đảng lần thứ XIII tiếp tục khẳng định chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ KHCN và ĐMST, Đảng đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số dựa trên nền tảng KHCN, ĐMST”. Cũng tại Đại hội này đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, nhấn mạnh: Phát trển mạnh mẽ KHCN, đổi mới, sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính để tăng trưởng kinh tế.

Ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển KHCN, ĐMST và chuyển đổi số quốc gia về đột phá phát triển KHCN, ĐMST và chuyển đổi quốc gia. Đây là thời cơ tốt nhất để đưa Việt Nam phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỹ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Vì vậy, việc khái quát thực trạng phát triển KHCN và ĐMST trong những năm qua, từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển KHCN và ĐMST và chuyển đổi số quốc gia đến 2030 và tầm nhìn 2045 là cần thiết.

KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KHCN, ĐMST VÀ CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA TRONG MẤY NĂM QUA

Về nhận thức và chính sách phát triển KHCN và ĐMST

Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nhận thức ngày càng rõ về vai trò, vị trí của KHCN, ĐMST và chuyển đổi số đối với sự phát triển của đất nước; đã ban hành một số Nghị quyết về KHCN, như: Nghị quyết số 37 của Bộ Chính trị (Khóa IV), Nghị quyết số 26 (Khóa VI), Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa VII). Tại Đại hội VIII năm 1996 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “KHCN là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội… công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bằng và dựa vào KHCN…; Phát triển KHCN gắn liền với bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững”. Các Đại hội IX, X, XI và XII tiếp tục khẳng định những nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của KHCN đối với phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Đại hội XII của Đảng đã ban hành một số Nghị quyết quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, khẳng định vai trò, vị trí ngày càng quan trọng của KHCN và ĐMST đối với sự phát triển đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu. Đặc biệt, ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57/NQ-TW về đột phá phát triển KHCN, ĐMST và chuyển đổi quốc gia. Đây là thời cơ tốt nhất để đưa Việt Nam phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỹ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Vì thế, KHCN đã có những bước phát triển khá toàn diện, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội.

Về đầu tư cho KHCN, ĐMST và chuyển đổi số

Những năm gần đây, Việt Nam đã chú trọng đến việc đầu tư phát triển KHCN và ĐMST và chuyển đổi số. Theo Bộ KHCN (2024), tính đến năm 2024, cả nước có khoảng hơn 4.000 doanh nghiệp (DN) khởi nghiệp sáng tạo. Trong đó có 2 kỳ lân và 11 DN được định giá trên 100 triệu USD; cả nước có 1.400 tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp, 202 khu làm vệc chung, 208 quỹ đầu tư, 35 tổ chức thúc đẩy kinh doanh, 79 cơ sở ương mạo và 170 trường đại học, cao đẳng tham gia hoạt động khởi nghiệp ĐMST; kinh tế số tiếp tục tăng trương nhanh chóng, với tốc độ khoảng 20%, nhanh gấp 3 lần tăng trưởng GDP. Tính đến tháng 12/2023, số lượt DN nhỏ và vừa tiếp cận chương trình hỗ trợ chuyển đổi số tăng đáng kể. Tính đến tháng 10/2024 có 48.000 DN công nghệ số hoạt động; dịch vụ công trực tuyến phát triển nhanh. Đã tích hợp hàng nghìn dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3, 4, tạo thuận lợi cho người dân và DN tiếp cận dịch vụ công trước tuyến; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia quan trọng, như: dữ liệu công dân, bảo hiểm xã hội và tiêm chủng dịch Covid-19 đã được tích hợp kết nối… Đặc biệt, thực hiện Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST quốc gia đến 2025 (ban hành theo Quyết định số 844/QĐ-TTg, ngày 18/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ), nhiều hoạt động nhằm gắn kết trí thức, kiều bào ở nước ngoài hỗ trợ khởi nghiệp ĐMST đã được tổ chức, như: Diễn đàn kết nối các DN khởi nghiệp sáng tạo của người Việt Nam tại Hoa kỳ và Việt Nam; diễn đàn kết nối Startup Việt trong và ngoài nước, TECHFEST quốc tế tại Hoa Kỳ, Singapore, Hàn Quốc…

Theo quy định ngân sách dành cho KHCN là 2% tổng chi ngân sách nhà nước (NSNN). Tuy nhiên, trong giai đoạn 2016-2019 mặc dù có xu hướng tăng lên nhưng đến 2020 nguồn vốn đầu tư cho KHCN giảm xuống; chi NSNN cho KHCN chiếm khoảng 1,36% đến 1,52% tổng chi NSNN, chưa đạt mức tối thiểu 2% theo như quy định. Tổng mức đầu tư của toàn xã hội cho KHCN trong các năm gần đật đạt 1,08% GDP; đầu tư tư nhân cho KHCN và ĐMST chỉ đạt 0,5%, thấp hơn gần 5 lần so với mực bình quân toàn cầu là 2,23% (Bộ KHCN, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2021).

Về phát triển thị trường KHCN

Theo Bộ KHCN (2024), những năm qua, thị trường KHCN đã có sự phát triển và đạt được những thành tựu đáng khích lệ, như: tốc độ gia tăng giá trị giao dịch công nghệ bình quân giai đoạn 2011-2020 là 22%. Trong đó, một số ngành có tăng trưởng cao, gồm điện, điện tử máy tính tăng trưởng với mức 46%; ngành chế biến gỗ, giấy tăng trưởng 29%, ngành chế biến thực phẩm tăng trưởng 28%...

Thị trường khoa học hình thành và bước đầu phát triển, có nhiều triển vọng sẽ hoạt động sôi nổi trên các sản giao dịch. Theo Bộ KHCN, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (2021), trên cả nước có 800 tổ chức trung gian của thị trường KHCN, như: sàn giao dịch công nghệ, trung tâm xúc tiến chuyển giao công nghệ và các tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp. Nếu như trước năm 2015, cả nước có 8 sàn giao dịch công nghệ thì đến giai đoạn 2015-2020 đã hình thành 20 sàn giao dịch địa phương, một sàn giao dịch vùng Duyên hải Bắc Bộ, một sàn giao dịch Đồng bằng sông Cửu Long đang trong giai đoạn thành lập. Cùng với việc phát triển các tổ chức trung gian truyền thống, các tổ chức kiểu mới cũng phát triển mạnh mẽ với 69 cơ sở ươm tạo, 28 chương trình thức đẩy kinh doanh, 28 khu không gian làm việc chung, chủ yếu tập trung tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ. Hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu từ các viện nghiên cứu, trường đại học có xu hướng chuyển biến tích cực. Nhiều kết quả nghiên cứu đã chuyển giao cho DN với doanh thu lên tới hàng chục, thậm chí hàng trăm tỷ đồng. Điển hình là trong giai đoạn 2011-2020, Trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh có doanh thu từ hoạt động chuyển giao công nghệ là 1.300 tỷ đồng.

Về hệ thống tổ chức KHCN và nguồn nhân lực KHCN

Theo Bộ KHCN (2024), hệ thống các tổ chức KHCN phát triển mạnh, hiện cả nước có hơn 5.000 tổ chức đăng ký hoạt động KHCN thuộc các thành phần kinh tế, tăng gấp 2 lần so với năm 2014. Riêng năm 2021, Bộ KHCN đã cấp mới và bổ sung Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động KHCN cho 23 đơn vị. Về nguồn nhân lực KHCN: tính đến nay, Việt Nam có khoản 8,17 triệu người có trình độ cao đẳng trở lên, trong đó có 30.000 tiến sĩ đang làm việc toàn thời gian tại các trường đại học, viện nghiên cứu. Một trong những thành tựu quan trong của Việt Nam trong mấy năm qua là sự tăng hạng trong bảng xếp hạng chỉ số ĐMST toàn cầu của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO). Năm 2024, báo cáo về xếp hạng Chỉ số ĐMST toàn cầu của Việt Nam đạt 44/133 quốc gia/nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2023. Đây là thứ hạng cao nhất mà Việt Nam đạt được so với những năm trước đây.

Chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực từ Chính phủ đến DN và xã hội, đã xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia quan trọng như dữ liệu bảo hiểm xã hội, dữ liệu công dân và dữ liệu tiêm chủng… Cổng dịch vụ công quốc gia tích hợp hàng nghìn dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4; mức độ quan tâm hoặc ứng dụng chuyển đổi số của DN đạt 92%. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 10% trong số đó chuyển đổi số thành công. Mạng 5G đang được đẩy nhanh triển khai, mở ra cơ hội kinh doanh mới cho DN và người dân, hiện có khoản 72% dân số sử dụng điện thoại thông minh. Đến cuối năm 2024, kinh tế số chiếm khoảng 18,3% GDP; doanh thu từ công nghiệp số đạt 154 tỷ USD và kim ngạch xuất khẩu phần cứng, điện tử ước tính đạt 132 tỷ USD. Hệ sinh thái khởi nghiệp phát triển nhanh, với trên 4.000 DN khởi nghiệp, 208 quỹ đầu tư, 84 vườn ươm và 20 trung tâm khởi nghiệp sáng tạo (Bộ KHCN, 2024).

Một số hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được của KHCN, ĐMST và chuyển đổi sô trong những năm qua là rất to lớn, vẫn còn những hạn chế nhất định, thể hiện trên một số điểm cơ bản dưới đây:

Một là, về cơ chế chính sách: Các chính sách và chương trình KHCN và ĐMST chưa thực sự phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; các chương trình KHCN chưa có sự gắn kết chặt chẽ với các chương trình liên quan. Cơ chế, chính sách còn một số vướng mắc, dẫn tới Quỹ phát triển KHCN của các DN chưa được sử dụng để đầu tư, đổi mới, ứng dụng công nghệ, hỗ trợ ĐMST số; ưu đãi thuế cho đầu tư NCKH và đổi mới công nghệ còn khó thực thi do các quy định pháp luật chưa đồng bộ. Sự liên kết giữa các DN với nhau và giữa DN với các cơ sở giáo dục đại học và cơ sở NCKH cũng như với các cơ quan quản lý nhà nước trong đổi mới, ứng dụng, chuyển giao và phát triển công nghệ còn yếu; chưa có cơ chế khuyến khích sử dụng lao động của các cơ sở giáo dục đại học tham gia vào hoạt động đổi mới, cải tiến, phát triển công nghệ.

Về phía các bộ, ngành và địa phương: Nhận thức của một số cấp, ngành và địa phương về vai trò của KHCN và ĐMST chưa đầy đủ, chưa toàn diện. Năng lực của các tổ chức nghiên cứu còn nhiều hạn chế. Ở cấp độ tổ chức nghiên cứu, các viện nghiên cứu và các tổ chức nghiên cứu đối mặt với thiếu nguồn tài chính và nguồn nhân lực; môi trường nghiên cứu chưa thực sự thuận lợi; chưa có cơ chế đánh giá hiệu quả dựa trên dữ liệu và số liệu cụ thể, dẫn đến việc đầu tư chưa đạt hiệu quả mong muốn. Hệ thống các tổ chức trung gian hỗ trợ giải mã, hoàn thiện công nghệ, thí nghiệm, thiết kế và phát triển sản phẩm, định giá công nghệ và tài sản trí tuệ còn thiếu và chưa phát triển. Thông tin, cơ sở dữ liệu, tài liệu về công nghệ, sáng chế, kết quả nghiên cứu chưa được công bố rộng rãi tới các DN.

Về phía DN: Các DN Việt Nam, nhất là DN vừa và nhỏ và các DN khởi nghiệp khó tiếp cận được các nguồn vốn, tín dụng để tiến hành đổi mới công nghệ, do vướng mắc về điều kiện tài sản đảm bảo, số năm kinh nghiệm hoạt động… Nhiều DN chưa có tầm nhìn dài hạn về việc cải tiến đổi mới công nghệ để phát triển bền vững. Các nỗ lực đổi mới công nghệ tại DN còn mang tính nhỏ lẻ, thiếu hệ thống. Khả năng tài chính của các DN còn hạn hẹp, năng suất lao động chưa cao; trình độ quản lý cũng như trình độ của đội ngũ khoa học trong các DN rất hạn chế.

Hai là, KHCN và ĐMST chưa thực sự trở thành động lực và nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội, cho tăng trưởng cũng như cơ cấu lại nền kinh tế và năng suất lao động xã hội. Nhiều quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực và địa phương chưa dựa trên cơ sở khoa học chuyên sâu, dẫn đến đầu tư dàn trải, thiếu tính khả thi. Một số nhiệm vụ nghiên cứu chưa bám sát yêu cầu sản xuất và đời sống. KHCN phát triển chậm, chưa tương xứng với tiềm lực sẵn có, mức độ đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước chưa đảm bảo, còn thua kém so với nhiều nước trong khu vực; chưa thực hiện được đầy đủ và hiệu quả vai trò “thực sự là quốc sách hàng đầu”, “là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nêu rõ, việc thực hiện các chủ trương, chính sách về phát triển và ứng dụng KHCN còn hạn chế, thiếu thể chế về tài chính, chuyển giao, ứng dụng, phát triển KHCN, nhất là công nghệ cao; thiếu giải pháp đồng bộ và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và địa phương. Cơ chế và chính sách cán bộ trong hoạt động KHCN còn nặng về hành chính hóa, chưa tạo thuận lợi để phát huy sáng tạo, thu hút nhân tài. Đầu tư cho KHCN còn thấp, hiệu quả chưa cao, năng lực sáng tạo của các nhà khoa học chưa được phát huy; chưa có chính sách hợp lý về vay vốn, thuế, hỗ trợ phát triển, tạo động lực để DN đầu tư đổi mới công nghệ. Hệ thống thông tin, thống kê KHCN chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phục vụ việc xây dựng các chiến lược, chính sách. Tác động của KHCN đối với mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu còn nhiều bất cập. Năng lực hấp thụ công nghệ của các DN, sơ sở sản xuất, kinh doanh còn hạn chế. Trong bối cảnh kinh tế còn khó khăn, thách thức, việc đầu tư cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ bị hạn chế khiến cho năng suất tạo ra sản phẩm KHCN còn một khoảng cách xa so với các nước trong khu vực và thế giới. Mặt khác, việc đổi mới công nghệ không chỉ là thay máy móc thiết bị cũ bằng máy thiết bị mới, mà còn đòi hỏi phải thay đổi cả tư duy, cả hệ thống quản lý cũng như phải tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, về vấn đề này ở Việt Nam vẫn còn khiêm tốn.

Ba là, trình độ công nghệ thấp, chậm được đổi mới trong nhiều ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ; sản phẩm KHCN mang lại còn rất khiêm tốn; tỷ lệ ứng dụng KHCN vào phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống thấp; tình trạng nhập khẩu và sử dụng các máy móc thiết bị và công nghệ của nước ngoài lạc hẫu, lỗi thời, không đồng bộ và kém hiệu quả. Đại bộ phận DN đang sử dụng công nghệ lạc hậu nhiều năm so với các nước phát triển, trong đó gần 80% công nghệ nhập từ nước ngoài trong những năm 60-70 của thế kỷ XX. Trong các DN có vốn đầu tư nước ngoài, trình độ công nghệ thấp chiếm đại bộ phận, công nghệ cao chỉ chiếm khoảng trên dưới 6%; các DN này chủ yếu là gia công, lắp ráp, ít kết nối với các DN thuộc thành phần kinh tế khác (Bộ KHCN, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2021).

Bốn là, mức độ đầu tư cho KHCN còn thấp, thể hiện ở chỉ số ICOR còn cao so với nhiều nước trong khu vực. Điều đó thể hiện ở các chính sách đầu tư cho KHCN còn nhiều bất cập do nguồn tài chính còn hạn hẹp và chưa đổi mới mạnh về tư duy; tỷ lệ đầu tư của ngân sách nhà nước cho KHCN mới chỉ đạt khoảng 2% tổng chi NSNN. Theo Bộ KHCN, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (2021), tỷ lệ chi cho KHCN trên GDP chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế của đất nước. Bên cạnh đó, đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển của Việt Nam còn thấp. Mức độ quan tâm đến đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển còn rất thấp; tỷ lệ chi cho hoạt động này chỉ khoảng 0,44% GDP. Trong khi đó, mức trung bình của thế giới là 2,23% GDP (Việt Nam thấp hơn 5 lần). Sự liên kết giữa các cơ sở nghiên cứu còn rất nhiều hạn chế, các hoạt động chuyển giao công nghệ từ các tổ chức KHCN đến các DN chỉ đạt dưới 1%. Tỷ lệ các DN có các hoạt động ĐMST rất thấp. Phân bổ NSNN cho phát triển KHCN và ĐMST còn có sự phân tán, dàn trải, chưa tập trung, chưa có cơ chế rõ ràng để đảm bảo minh bạch; chủ yếu là chi cho bộ máy; chi cho đào tạo nguồn nhân lực KHCN còn ở mức thấp, chỉ khoảng trên dưới 1.000 USD/người/năm, chi tiền lương cho cán bộ khoa học cũng ở mức rất khiêm tốn. Hiệu quả sử dụng nguồn lực đầu tư cho KHCN không cao, bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó do cơ chế phân bổ chưa phù hợp.

Năm là, thị trường KHCN chưa phát triển; số DN có đầu tư tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu KHCN hiện nay chỉ mới đạt khoảng 10% (Bộ KHCN, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2021). So với nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 thì giá trị và lượng hàng hóa KHCN giao dịch còn hạn chế. Các tổ chức KHCN trong các DN chưa phát triển. Các yếu tố hình thành thị trường KHCN chưa phát triển đồng bộ, năng lực của nhiều chủ thể trên thị trường KHCN còn thấp, chưa có sự gắn kết giữa các cơ sở nghiên cứu, trường đại học, viện nghiên cứu với DN…

Sáu là, đội ngũ cán bộ KHCN tăng về số lượng nhưng chưa tăng được về chất lượng, thiếu nhiều chuyên gia giỏi, cán bộ khoa học đầu ngành trong nhiều lĩnh vực quan trọng, thiếu các tập thể khoa học mạnh, các chuyên gia đầu ngành có khả năng dẫn dắt các hướng nghiên cứu mới hoặc chỉ đạo triển khia các nhiệm vụ khoa học quốc gia ở trình độ quốc tế. Hiệu quả hoạt động của các tổ chức KHCN công lập chưa cao, các công trình NCKH tầm cở quốc tế còn rất ít; việc phân bố cán bộ KHCN chưa hợp lý giữa các vùng, miền, giữa khu vực nông thôn và thành thị, miền núi và miền xuôi; chưa có giải pháp cụ thể để đào tạo đội ngũ các nhà KHCN kế cận. Bên cạnh đó, chế độ đãi ngộ với các nhà khoa học cũng như những người làm công tác quản lý về KHCN còn nhiều bất cập, không khuyến khích được đội ngũ cán bộ này có nhiều cống hiến vì KHCN.

Bảy là, năng lực KHCN, ĐMST và chuyển đổi số hiện còn yếu và hệ thống ĐMST quốc gia còn non trẻ, manh mún. Công tác nghiên cứu và phát triển (R&D) vẫn chỉ là hoạt động mang tính thêm thắt trong các DN và cả các cơ quan nhà nước.

Tám là, cơ sở vật chất, kỹ thuật và trang thiết bị phục vụ cho nghiên cứu khoa học và công nghệ còn thiếu và chưa đồng bộ, còn nghèo nàn, lạc hậu. Ở một số địa phương, ngân sách đầu tư phát triển KHCN chưa được phân bổ hợp lý và sử dụng chưa đúng mục đích; máy móc, trang bị của một số trung tâm ứng dụng tiến bộ KHCN, trung tâm kỹ thuật đo lường chất lượng còn nghèo và lạc hậu, chưa được đầu tư mua sắm kịp thời và đồng bộ. Thông tin KHCN còn rất thiếu và không kịp thời; chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ sở nghiên cứu với các trường đại học và các DN; nhiều công trình nghiên cứu khoa học không ứng dụng được vào thực tiễn, gây tình trạng lãng phí không ít về nguồn lực.

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KHCN, ĐMST VÀ CHUYỂN ĐỔI SỐ

Một là, nâng cao nhận thức và đỏi mới tư duy. Tăng cường tuyên truyền giáo dục đề các cấp lãnh đạo, DN và người dân hiểu rõ tầm quan trọng của KHCN, ĐMST và chuyển đổi số trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội; khuyến khích tinh thần khởi nghiệp sáng tạo trong cộng đồng, tạo môi trường thuận lợi và áp dụng các ý tưởng mới trong sản xuất kinh doanh và NCKH.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để khuyến khích và hỗ trợ, huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu, phát triển và ứng dụng KHCN, chuyển đổi số và ĐMST; ban hành chính sách ưu đãi thuế, tín dụng và đất đai nhằm khuyến khích DN đầu tư vào nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất kinh doanh; các ngành, địa phương trong quá trình xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cần thiết đưa các mục tiêu, nhiệm vụ KHCN, chuyển đổi số và ĐMST vào kế hoạch này.

Ba là, tăng cường đầu tư và phát triển hạ tầng KHCN; bảo đảm sự cân đối, bố trí nguồn lực thỏa đáng cho đầu tư phát triển KHCN và ĐMST; đầu tư hạ tầng số, xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại, đảm bảo an toàn, an ninh mạng và khả năng kế nối cao; phát triển các nền tảng số quốc gia, tạo điều kiện cho việc chia sẻ và khai thác dữ liêu một cách hiệu quả; đảm bảo tốc độ tăng tỷ lệ đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho phát triển KHCN lớn hơn tốc độ chi ngân sách cho hoạt động này; đa dạng hóa nguồn đầu tư cho KHCN từ nguồn ngoài NSNN; huy động và phát huy tối đa nguồn lực từ ngân sách nhà nước, nguồn đầu tư từ DN, khu vực tư nhân, công đồng và vốn nước ngoài cho hoạt động nghiên cứu ứng dụng, ĐMST, khởi nghiệp, chuyển giao phục vụ phát triển đồng bộ của các lĩnh vực, các ngành; tập trung đầu tư cho những ngành, những lĩnh vực sản phẩm quan trọng có ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế- xã hội nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế

Bốn là, thúc dẩy nghiên cứu, ứng dụng và ĐMST; hỗ trợ DN, đặc biệt là DN nhỏ và vừa trong việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ mới; xây dựng các trung tâm ĐMST, vườn ươm, DN và quỹ đầu tư mạo hiểm để hỗ trợ khởi nghiệp và ĐMST.

Năm là, phát triển thị trường KHCN, khuyến khích ĐMST; tăng cường chuyển đổi số phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, phấn đấu đạt được giá trị hàng hóa KHCN hàng năm tăng mạnh, bình quân đạt 30% và trên 35% đối với một số lĩnh vực, ngành hàng xuất khẩu chủ lực. Tỷ trọng giao dịch tài sản trí tuệ đạt trên 20%, tỷ trọng giao dịch các công nghệ nhập khẩu từ các nước phát triển đạt 35%; tỷ trọng giao dịch công nghệ từ các viện nghiên cứu, trường đại học Việt Nam đạt trên 40% trong tổng giao dịch công nghệ có nguồn gốc trong nước. Đẩy mạnh phát triển các sàn giao dịch công nghệ cả ở trung ương và địa phương; phát triển mạnh các tổ chức, bao gồm: các tổ chức trung gian truyền thống và các tổ chức kiểu mới. Tăng cường hệ thống thông tin, thống kê dữ liệu về các giao dịch chuyển giao công nghệ, đặc biệt là ở các địa phương; xây dựng cơ chế chính sách tạo động lực cạnh tranh để thúc đẩy DN tham gia thị trường KHCN; cơ chế liên thông thị trường với các thị trường hàng hóa, dịch vụ, tài chính và lao động. Đẩy mạnh hợp tác viện nghiên cứu, trường đại học và DN. Phát triển chính sách thương mại hóa, đưa nhanh kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ và sản xuất, kinh doanh; Khuyến khích các cơ sở nghiên cứu, các tổ chức KHCN, các trường đại học, viện nghiên cứu tổ chức nghiên cứu, giới thiệu các sản phẩm KHCN cũng như các công nghệ mới.

Sáu là, phát triển nguồn nhân lực KHCN, ĐMST và nguồn nhân lực phục vụ chuyển đổi số đủ về số lượng và nâng cao về chất lượng; xây dựng, quản lý nhân lực KHCN, ĐMST và chuyển đổi số phù hợp với giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế và công nghệ số; xây dựng chính sách đào tạo, sử dụng, thu hút, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ KHCN, nhất là những chuyên gia hàng đầu có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển KHCN, ĐMST và chuyển đổi số; tạo môi trường thuận lợi về tinh thần và vật chất nhằm khuyến khích đội ngũ cán bộ KHCN, ĐMST và chuyển đổi số phát triển tài năng và cống hiến cho sự nghiệp phát triển KHCN, ĐMST và chuyển đổi số.

Bảy là, tăng cường hợp tác quốc tế; mở rộng hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế trong lĩnh vực KHCN và chuyển đổi số; tham gia tích cực vào các diễn đàn, hiệp định quốc tếđể học hỏi kinh nghiệm và thu hút nguồn lực cho phát triển, sáng tạo và chuyển đổi số./.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Công Thương (2021), Báo cáo tại Hội nghị thường niên về phát triển KHCN & ĐMST và nguồn nhân lực.

2. Bộ KHCN (2024), Báo cáo tại Ngày hội Khởi nghiệp ĐMST tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ hai (Techfest VinhPhuc 2024) với chủ đề “Vĩnh Phúc - Tiên phong sáng tạo, khát vọng đổi mới”, ngày 20-21/12/2024.

3. Bộ KHCN, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (2021), Báo cáo tại Hội thảo Tổng kết 10 năm phát triển thị trường KHCN giai đoạn 2011-2020”, ngày 15/5/2021.

4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2023), Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

Ngày nhận bài: 11/02/2025; Ngày phản biện: 20/02/2025; Ngày duyệt đăng: 07/03/2025